Chí trai ôm ấp hoài bảo lớn
Vì non sông nước Việt
Yêu quý ngàn đời!!!
Phạm Hoàng Tùng năm
1993
tại Phnom Penh (Nam Vang)
Cam Bốt (Kampuchea ).
Hùng Ca Sử Việt
Thề Không Phản Bội Quê Hương.
Nguyệt Ánh và Việt
Dũng trình bày.
Nhạc phẩm trước thời điểm
tháng Tư Đen/1975
của Cục Chính Huấn
VNCH.
Nguồn: youtube.
Cộng
Đồng Người Việt Hải Ngoại
Nỗ Lực Kiến Tạo Công Cuộc Đấu Tranh
Sau
Ngày 30/4/1975 &
Đại
Cuộc Thất Bại Vì Nạn Gia Đình Trị
Và Chiếm Dụng Tiền Bạc Bất Hợp Pháp.
Bức
thơ bên dưới đây do cá nhân chúng tôi trích từ Phần Tài Liệu trong Hồi Ký Kháng
Chiến Hành Trình Người Đi Cứu Nước với mục đích để bạn đọc trong nước, đặc biệt
là giới trẻ biết được giai đoạn đấu tranh hào hùng - dũng khí của Người Việt Hải
Ngoại vì một quốc gia Việt Nam Tự Do.
Một
công dân bình thường đã biết sống lương thiện thì một lãnh đạo lại càng phải biết
sống nhân đức.
Phạm
Hoàng Tùng.
Tổ Chức PHỤC
HƯNG VIỆT NAM
___________________________________________________________
P.O Box
91601 , Pasadena , CA 91109 , USA
Website http://www.phvn.org -
Email: phvn@phvn.org
Ngày 14 tháng 1 năm
2005
THƯ NGỎ
Kính gởi ông Phạm
Văn Liễu
Tác giả cuốn
"Trả Ta Sông Núi - Hồi ký tập 3"
1217 Fox Sparrow
Trail
Kính ông,
Chúng tôi đọc được
Hồi ký 3 Trả Ta Sông Núi của ông vừa phát hành. Trong hồi ký nói trên ông có đề
cập đến một số vấn đề liên quan đến sự hợp tác của Tổ Chức Phục Hưng Việt Nam
(TC/PHVN) với Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (MT) không được
chính xác.
Cuốn sách của ông
liên quan đến sự hình thành và những vấn đề sau đó của MT là một tài liệu lịch
sử cho những ai nghiên cứu lịch sử đấu tranh của người Việt hải ngoại trong
công cuộc xây dựng dân chủ và vãn hồi tự do cho dân tộc.
Và vì là một tài
liệu lịch sử nên chúng tôi viết cho ông Thư ngỏ này, nêu ra những sự thật để
lịch sử có được những dữ kiện chính xác, dành cho những người Việt quan tâm,
nhất là các sử gia, và không có mục đích tranh luận gì với ông, cũng như không
phải để chứng minh ông Hoàng Cơ Minh sai hay đúng ở chỗ nào.
Mỗi hoàn cảnh có thể
cho mỗi người trong chúng ta có một quyết định và phán đoán khác nhau. Dù sao
ông Hoàng Cơ Minh cũng đã hy sinh cho đại cuộc, và điều đó nói lên tấm lòng vì
nước vì dân của ông ta. Chúng tôi cảm phục sự hy sinh đó.
Thưa ông, cuốn Hồi
ký dày 544 trang của ông chứa đựng nhiều điều mà trong phạm vi một Thư ngỏ
chúng tôi không thể trích dẫn từng đoạn từng câu để đối chiếu với sự thật.
Nhưng bức tranh của sự việc như sau.
Sự thành hình Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam :
Sự hình thành MT mà
sau này thường được cộng đồng hải ngoại gọi là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh được ghi
nhận trong tài liệu lưu trữ của TC/PHVN như sau:
MT hình thành do
quyết định của 3 tổ chức: Người Việt Tự Do tại Nhật Bản, TC/PHVN và Lực Lượng
Quân Dân Hải Ngoại (LL/QDHN) vào một ngày tháng 6 năm 1981 tại phi trường San
Francisco khi ba đại diện của ba tổ chức nói trên lên đường đi Bangkok để gặp
một cựu tướng lãnh của Thái Lan.
Công tác này có được
do sáng kiến của TC/NVTD. TC/NVTD là một tổ chức gồm những sinh viên từ miền
Nam Việt Nam du học Nhật Bản. Năm 1975 khi miền Nam Việt Nam sụp đổ những sinh
viên trẻ này thành lập TC/NVTD không chấp nhận sự quản lý của tòa đại sứ Hà
Nội. Bốn thành viên sáng lập TC/NVTD gồm các ông Ngô Chí Dũng, Đỗ Thông Minh,
Phạm Thanh Linh và Huỳnh Lương Thiện.
Ông Phạm Thanh Linh
qua nhiều chuyến công tác giúp người tị nạn tại các trại tị nạn Thái Lan đã
thiết lập được quan hệ với chính quyền Thái Lan qua ông Nguyễn Chí Trung, một
người Việt định cư ở Thái Lan và có nhiều quan hệ với chính quyền Thái Lan.
Ông Nguyễn Chí Trung
biết Thái Lan có nhu cầu giúp đỡ người Việt chống Cộng (thời gian đó Thái Lan
rất lo ngại cho biên giới Thái Lào có thể bị các đơn vị cộng sản Việt Nam thâm
nhập) và đã giới thiệu TC/NVTD liên lạc với Thái lan qua tướng hồi hưu Sutsai,
lúc đó đang giữ chức vụ Bộ trưởng phủ Thủ tướng Thái Lan.
Thời điểm đó là vào
đầu năm 1981. Lúc đó TC/PHVN đã được thành lập (tháng 12/1978) và làm việc chặt
chẽ với TC/NVTD vì trong thời gian tị nạn tại Nhật Bản (từ tháng 3/77 cho đến
10/77) hai cựu dân biểu (VNCH) Trần Văn Sơn và Trần Văn Thung (hai trong 11
thành viên sáng lập TC/PHVN) đã được TC/NVTD giúp đỡ mọi mặt.
TC/NVTD thấy cần
phối hợp các đoàn thể hải ngoại cho công tác quan trọng này nên đã liên lạc với
ông Trần Văn Sơn lúc đó là chủ tịch TC/PHVN yêu cầu hợp tác. TC/NVTD cho biết
người Thái muốn có một cựu tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa trong phái đoàn và ủy
thác cho TC/PHVN kiếm người.
Thoạt tiên TC/PHVN
mời cựu đại tá Lê Khắc Lý. Đại tá Lý đã đồng ý tham dự, nhưng vài tháng sau cho
biết vì vấn đề gia đình không thể tham dự vào phái đoàn được. TC/PHVN tham khảo
ý kiến với TC/NVTD và đồng ý mời Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh tham dự phái đoàn. Đại
tá Lý hay Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đều được mời với tính cách cá nhân.
Ông Hoàng Cơ Minh
sốt sắng nhận lời và cho biết ông ta đang là một thành viên của Lực lượng Quân
Dân Hải Ngoại (LL/QDHN) do trung tá Lục Phương Ninh làm chủ tịch và yêu cầu
TC/PHVN không thông báo gì về công tác này với ông Lục Phương Ninh. Ông Hoàng
Cơ Minh nói ông có nhiệm vụ thông báo nội bộ.
Đại diện của ba tổ
chức đã đồng ý thành lập một phái đoàn 3 người gồm, ông Trần Văn Sơn (TC/PHVN-
trưởng phái đoàn), ông Đỗ Thông Minh (TC/NVTD) và ông Hoàng Cơ Minh (LL/QDHN)
để đi Thái Lan. Ngày đi phải hoãn nhiều lần chờ ông Hoàng Cơ Minh xin Re-entry
Permit (lúc đó ông Hoàng Cơ Minh chưa có thông hành Hoa Kỳ).
Vào một ngày tháng 6
năm 1981, phái đoàn rời phi trường San
Francisco đáp máy bay của hãng Singapore Airlines đi
Bangkok. Ông Đỗ Thông Minh từ Nhật bay qua cùng đi. Ra tiễn tại phi trường có
một mình ông Huỳnh Lương Thiện thuộc TC/NVTD.
Trong khi chờ đợi
tại phi trường ông Hoàng Cơ Minh đưa ý kiến nên lấy một cái tên chung để ba người
cùng đại diện (chứ chẳng lẽ - theo lời ông Hoàng Cơ Minh- chúng ta ba người đại
diện cho ba tổ chức). Đến vấn đề chọn tên bàn qua bàn lại sau cùng ba vị đồng ý
lấy tên tạm là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (MT) do ông
Hoàng Cơ Minh đề nghị. Chúng tôi đồng ý. Đối với TC/PHVN và TC/NVTD thì đây là
một danh xưng hoàn toàn mới mẻ nẩy sinh do nhu cầu công tác.
TC/PHVN đã đề nghị
một phương pháp làm việc là nếu có vấn đề gì cần giải quyết thì lấy ý kiến đa
số. Trưởng phái đoàn không có ưu tiên. Ba người đại diện ba tổ chức đồng ý
nguyên tắc làm việc này.
Chuyến công tác Thái
Lan thành công tốt đẹp. Người Thái đồng ý để MT đưa người vào Thái Lan. Họ đề
nghị việc đưa người nên tiến hành từ từ từng đợt, con số đầu tiên là 30 người.
Và trước khi nhập cảnh Thái Lan cần thông báo danh sách 10 ngày trước.
Từ Thái Lan phái
đoàn qua Tokyo
và cùng với nhiều thành viên khác của TC/NVTD (gồm ông Ngô Chí Dũng, Huỳnh
Lương Thiện, Phạm Thành Linh, Vũ Đăng Khuê) thảo luận phương thức làm việc và
đã ghi nhận trên một văn bản.
Nội dung bản văn
đồng ý duy trì tên MT như là một thực thể chính trị do ba tổ chức TC/PHVN,
TC/NVTD và LL/QDHN thành hình để tiến hành cục đấu tranh cho một nước Việt Nam
dân chủ và tự do.
MT tạm thời được
lãnh đạo bởi một Hội Đồng Chỉ Đạo (HĐCĐ) gồm 6 ủy viên, mỗi tổ chức chỉ định 2
ủy viên. HĐCĐ sẽ qua Thái Lan để làm việc. Cơ cấu của MT gồm Tổng vụ Quốc nội
và Tổng vụ Hải ngoại. Tổng vụ Quốc nội có nhiệm vụ lập khu chiến. Tổng vụ Hải
ngoại có nhiệm vụ huy động sự yểm trợ của cộng đồng hải ngoại.
Do nhu cầu quân sự,
ông Trần Văn Sơn, đại diện TC/PHVN, đề nghị cử ông Hoàng Cơ Minh làm chủ tịch
HĐCĐ, và TC/NVTD đồng ý. HĐCĐ sẽ làm việc theo nguyên tắc thảo luận và lấy ý
kiến đa số, ủy viên HĐCĐ mỗi người một phiếu. Buổi họp cũng đồng ý sẽ không
công bố bất cứ hoạt động nào của MT cho đến khi HĐCĐ ra mắt tại khu chiến. HĐCĐ
sẽ được thành hình sau, chờ đợi sự bổ nhiệm của mỗi tổ chức và sẽ là cái nhân
của Tổng vụ Quốc nội.
Vấn đề phải giải
quyết ngay là Tổng vụ Hải ngoại. Trên đường về khi dừng chân tại Hồng Kông
(khách sạn Miramar )
phái đoàn họp bàn tìm người giữ chức vụ Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải ngoại. Có
hai nhân vật được nêu ra. Cụ Phạm Ngọc Lũy chủ tịch hội Trường Xuân, một nhân
vật khả kính trong cộng đồng người Việt hải ngoại, và cựu đại tá Phạm Văn Liễu.
Sau khi cân nhắc phái đoàn đồng ý chọn đại tá Liễu, một người cứng rắn hơn,
theo đề nghị của ông Hoàng Cơ Minh.
Phái đoàn cũng đồng
ý TC/NVTD chọn Tổng vụ phó (TC/NVTD chỉ định ông Huỳnh Lương Thiện, nguyên ủy
viên trung ương của TC/NVTD) và TC/PHVN chọn Tổng thư ký (TC/PHVN chỉ định ông
Ngô Đức Diễm, nguyên ủy viên trung ương của TC/PHVN). Trở về Hoa Kỳ ông Hoàng
Cơ Minh đưa ông đến thăm ông Trần Văn Sơn, chủ tịch TC/PHVN, và - theo lời của
ông Hoàng Cơ Minh - để chính thức hóa chức Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải ngoại của
ông. TC/PHVN được biết ông từ lúc đó.
Ông Trần Văn
Sơn (trái) và
Hoàng Cơ Minh (phải)
(cùng Đỗ
Thông Minh)
trong chuyến
đi Thái đầu tiên, thời gian 15-21/6/1981,
đang nghiên
cứu bản đồ đặt khu chiến.
Ảnh nguồn: Hồi Ký Kháng Chiến
Hành Trình Người Đi Cứu Nước
của Phạm Hoàng Tùng.
Cá nhân PHT chúng tôi đưa hình vào bức thơ này
để minh họa sự kiện.
Công tác Thái Lan:
Để chuẩn bị lên
đường mỗi tổ chức cần bổ nhiệm hai ủy viên Hội đồng Chỉ đạo. LL/QDHN bổ nhiệm
ông Hoàng Cơ Minh và trung tá Lê Hồng. TC/NVTD bổ nhiệm hai ông Ngô Chí Dũng và
Phạm Thanh Linh, TC/PHVN bổ nhiệm ông Trần Văn Sơn và ông Đỗ Hùng. TC/PHVN làm
trung gian liên lạc và phối hợp hoạt động giữa ba tổ chức.
Về nhân sự công tác
Thái Lan LL/QDHN chuẩn bị sớm nhất, và với sự đồng ý của HĐCĐ, anh em LL/QDHN
sẽ lên đường trước để chuẩn bị cơ sở vật chất. TC/PHVN và TC/NVTD sẽ lên đường
sau.
Tháng 8 năm 1981 phó
Đề Đốc Hoàng Cơ Minh cùng trung tá Hồng dẫn một số chừng 5 thành viên khác lên
đường đi Thái Lan. Vì lên đường không kịp thông báo trước nên Thái Lan từ chối
không nhận, các anh em thuộc LL/QDHN phải bay sang tạm trú tại Tokyo chờ đợi can thiệp.
Trong thời gian ở Tokyo ông Hoàng Cơ Minh
nhiều lần điện thoại về yêu cầu TC/PHVN hoãn lên đường chờ cho đoàn của ông
sang Thái Lan đã.
Nhờ sự can thiệp của
ông Nguyễn Chí Trung bên cạnh chính phủ Thái Lan, cuối tháng 8 ông Hoàng Cơ
Minh và anh em LL/QDHN rời Tokyo đi Thái Lan. Hai tuần sau ông Trần Văn Sơn và
ông Đỗ Hùng cũng đến Bangkok .
Có một số công việc
phải làm và một số vấn đề phải giải quyết, và cần thảo luận. Mỗi lần TC/PHVN đề
nghị giải quyết bằng cách họp HĐCĐ (lúc đó có 4 người hiện diện) ông Hoàng Cơ
Minh đều gạt đi cho rằng chưa có đại diện của TC/NVTD. Mỗi việc ông chỉ tham
khảo ý kiến hình thức với ông Trần Văn Sơn rồi lấy quyết định. TC/PHVN có cảm
tưởng ông Hoàng Cơ Minh không xem ông Lê Hồng và ông Đỗ Hùng có tư cách ủy viên
HĐCĐ ngang hàng với ông.
Tháng 9 năm 1981 do
sự sắp xếp của Thái Lan, HĐCĐ cùng với số anh em LL/QDHN hiện diện đi thăm nơi
sẽ làm khu chiến, cách thủ đô Bangkok 570 km nằm trên biên giới Thái-Lào. Bên
kia biên giới là thành phố Pakse của Lào. Tại chỗ phái đoàn đã gặp một số đơn
vị người Lào (Lào quốc gia, từ Lào bỏ chạy sang Thái Lan sau khi Pathet Lào chiếm
Lào năm 1975) được người Thái cho đóng rải rác dọc biên giới Thái-Lào để báo
động các xâm nhập của cộng sản Việt Nam .
Trở về Bangkok , anh Phạm Thanh
Linh thuộc TC/NVTD vừa sang. TC/PHVN đề nghị phân định trách nhiệm của mỗi ủy
viên HĐCĐ, mặt quân sự, mặt chính trị, mặt ngoại giao, mặt tiếp vận và làm việc
theo nguyên tắc đã đồng ý tại Tokyo .
Nhưng ông Hoàng Cơ
Minh cho rằng chưa cần phân nhiệm vì chưa có công việc gì quan trọng, và tình
trạng ở khu chiến không thích hợp với lề lối sinh hoạt dân chủ (nghĩa là bàn
thảo và biểu quyết). Đến đây TC/PHVN cảm thấy có dấu hiệu bất thường, nhưng vẫn
tiếp tục làm việc với ông Hoàng Cơ Minh.
Quyết định rút ra khỏi MT:
Sự việc làm tràn ly
nước là đại diện của TC/PHVN trong HĐCĐ nhận được báo cáo từ miền Nam California
rằng báo chí tại đó đăng tải tin MT do ông Hoàng Cơ Minh lãnh đạo đã thành lập
khu chiến, khu chiến lúc này chưa được thành lập (vì chưa có người), và sự
việc này trái với nguyên tắc "chỉ công bố sự hiện hữu của MT tại buổi lễ
ra mắt".
Ông Trần Văn Sơn
chất vấn ông Hoàng Cơ Minh về việc tiết lộ tin tức không chính xác cho báo chí
thì ông Hoàng Cơ Minh nói cần tung tin để động viên tinh thần đồng bào hải
ngoại và tạo điều kiện cho Tổng vụ Hải ngoại gây dựng cơ sở.
Đến đây TC/PHVN nhận
định rằng, từ lúc đầu các giao ước căn bản giữa ba tổ chức sáng lập đã không
được tôn trọng, thì nhìn xa, cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ không thể
thành công, và nếu thành công thì đất nước cũng sẽ rơi vào một thứ độc tài
khác, nên trong Đại Hội III của TC/PHVN cuối năm 1981 sau khi nghe hai ông Trần
Văn Sơn và Đỗ Hùng vừa từ Thái Lan trở về dự đại hội) tường trình, Đại hội đã
biểu quyết rút ra khỏi MT.
Đại hội cũng biểu
quyết chỉ thông báo quyết định rút lui cho ông Hoàng Cơ Minh và TC/NVTD và
không công bố bất cứ điều gì với báo chí vào thời điểm đó để giữ vững tinh thần
đấu tranh của cộng đồng hải ngoại.
Đây là quyết định
khó khăn nhất của TC/PHVN, bởi lẽ, với vai trò của một thành viên sáng lập, sự
rút lui của TC/PHVN khỏi Mặt Trận có thể tạo dư luận không mấy thuận lợi cho nỗ
lực đoàn kết đấu tranh giải thể chế độ Cộng Sản.
Sau đại hội III
TC/PHVN thông báo ông Hoàng Cơ Minh quyết định rút lui. Ông Hoàng Cơ Minh không
thắc mắc gì. Khó khăn nhất là thông báo cho TC/NVTD, vì rút lui là TC/PHVN đã
phụ lòng ủy thác của TC/NVTD.
Tuy nhiên TC/PHVN
chỉ thông báo rút lui và không khuyến khích TC/NVTD cùng rút. Nhưng khi TC/NVTD cho biết sẽ giải thể để gia
nhập vào MT, TC/PHVN mới góp ý nên duy trì TC/NVTD để nếu công tác MT không
mang lại kết quả thì anh em vẫn còn một cơ sở để tiếp tục cục đấu tranh.
Anh em TC/NVTD vẫn
quyết định giải thể, và ngưng ấn hành tờ Người Việt Tự Do (phát hành tại Tokyo)
rất được yêu chuộng vào thời điểm đó để dồn nỗ lực làm tờ Kháng Chiến, một cơ
sở thông tin và vận dụng quần chúng của MT.
Sau này khi MT phân
thành hai vì bất hòa nội bộ, ông Đỗ Thông Minh và ông Huỳnh Lương Thiện rút ra
khỏi MT, một số anh em khác vẫn tiếp tục sinh hoạt với MT, trong đó có ông Ngô
Chí Dũng, một Ủy viên của Hội đồng Chỉ đạọ Ông Ngô Chí Dũng sau này qua Thái
Lan làm việc với ông Hoàng Cơ Minh và biệt tăm. MT chưa bao giờ giải thích sự
biệt tăm của ông Ngô Chí Dũng.
Kính thưa ông,
Trong 24 năm qua
TC/PHVN đã tự chế trong việc tiết lộ những điều trên. Hôm nay chúng tôi viết
Thư ngỏ này gởi đến ông, và như đã thưa với ông, TC/PHVN không có mục đích gì
khác hơn là làm sáng tỏ một số sự kiện lịch sử. Chúng tôi tôn trọng ý kiến của
ông cũng như vẫn hằng tôn trọng các tổ chức đấu tranh đứng đắn khác.
Trân trọng kính chào
ông
TM Tổ Chức Phục Hưng
Việt Nam ,
Ngô Đức Diễm
Phát Ngôn Nhân.
Cá nhân Phạm Hoàng
Tùng chúng tôi trích mục bên dưới này trong Phần Tài Liệu của Hồi Ký Hành Trình
Người Đi Cứu Nước để bạn đọc trong nước được rõ:
Việc
Yểm Trợ Kháng Chiến
Ở
Hải Ngoại
Đã nói tới hoạt động
kháng chiến ở tiền tuyến, không thể không nói tới hoạt động yểm trợ tại hậu
phương rộng lớn, khi đó là khoảng 1,5 triệu người Việt ở khắp nơi trên thế
giới.(Một số hình ảnh bên dưới được trích từ bộ “Hồi Ký Một Đời
Người” của cụ Phạm Ngọc Lũy).
Sự dấn thân lên
đường của cựu Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đã được dư luận loan truyền, nhưng phải
đợi đến khi Mặt Trận công bố Cương Lĩnh Chính trị ngày 8/3/1982 tại khu chiến
thì mọi người mới biết rõ.
Sự dấn thân lên
đường của cựu Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và nhiều chiến hữu đã làm nức lòng người
Việt lưu vong, ngày ngày trông vời cố quốc. Đó là động lực chính đã thúc đẩy
cao trào đấu tranh ở hải ngoại.
Tổ Chức Người Việt
Tự Do đã giải tán để thành lập MT, nên tất cả thành viên của tổ chức đều gia
nhập Mặt Trận. Cơ sở thực hiện nguyệt san Người Việt Tự Do của tổ chức tại San
Jose, Cali, Mỹ đã đổi thành cơ sở thực hiện nguyệt san Kháng Chiến là cơ quan
Tuyên Vận của MT do anh Đỗ Thông Minh làm Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút. Báo Kháng
Chiến khổ tabloid (1/2 nhật báo), phát hành mỗi kỳ hơn 10.000 tờ.
Tin tức loan ra đã
làm nức lòng người Việt khắp năm châu và Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng
Chiến bao gồm khoảng 100 Ủy Ban đã được thành lập khắp nơi để yểm trợ cho hoạt
động kháng chiến. Ngay đến các trại tỵ nạn tại Thái, Hồng Kông, Nhật Bản… cũng
có Ủy Ban Yểm Trợ Kháng Chiến. Rất đông đồng bào tỵ nạn tại Nhật tự nguyện đóng
góp mỗi tháng
một ngày lương cho kháng chiến.
Ở Mỹ có chiến dịch
mua gạo ăn từ Ủy Ban Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến thay vì mua gạo ngoài. Các
nhà lãnh đạo tôn giáo như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành… cũng tham gia
ủng hộ.
Đại Hội Đồng Tâm ở San Jose ,
ngày
4/6/1983
với khoảng 3.000 người dự.
Đặc biệt nữ tài tử
Kiều Chinh, ông Lữ Liên và Vũ Huyến là những người tích cực điều động, phối hợp
với tòa báo Kháng Chiến để tổ chức các buổi văn nghệ gây quỹ ở các nơi. Đông đảo nghệ sĩ
như Mai Thảo, Minh Đức Hoài Trinh, ban AVT (Lữ Liên, Vũ Huyến, Tường
Duy), Trần Văn Trạch, Phạm Đình Chương, Khánh Ly, Lệ Thu, Elvis Phương, Hoàng
Oanh, Minh Hiếu, Nguyệt Ánh, Việt Dũng, Dũng Thanh Lâm, Ngọc Phu, Trường Hải,
Jo Marcel, Ngọc Minh, Trúc Mai, Kim Anh, Diễm Chi, Nhật Minh, Xuân Sơn, Vi Vân,
Lê Nguyễn, Julie Quang, Châu Đình An, Quang Minh, Viễn Du… rồi Tam ca Thép
Súng, ban Phương Nam, Ban The Sound, ban vũ Long Hoa, ban kịch Quốc Vũ… và
nhiều nhiều nữa ở khắp nơi trên thế giới không kể ra hết được, mọi người đã
tích cực tham gia yểm trợ kháng chiến.
Từ sau khi công bố
Cương Lĩnh Mặt Trận ngày 8/3/1982, ở hải ngoại, phong trào yểm trợ kháng chiến
bùng lên khắp nơi. Mọi hỗ trợ về tinh thần và vật chất cho kháng chiến quân đều
do sự đóng góp của người Việt ở hải ngoại. Tổng
số tiền quyên góp ước khoảng 10 triệu Mỹ kim?
ngoài hội trường Garden Grove , 16/4/1983.
Leo lét sáng giữa rừng đen đậm đặc,
Cali Today News – Có lẽ một người sống ở Nhật mà
ai ở Mỹ cũng biết đến chính là học giả Đỗ Thông Minh. Trong suốt 30 năm qua,
anh đã đến Mỹ tới 28 lần, mà mỗi lần đến là mang đến cộng đồng người Việt tại
Hoa Kỳ những điều quan trọng: Có khi là một ý tưởng, có khi là một phong trào
đấu tranh, có khi là một công trình nghiên cứu mới,… và lần này là giới thiệu
một bộ hồi ký hai tập của một kháng chiến quân phục quốc Phạm Hoàng Tùng…
Thời gian trôi qua khá lâu từ ngày các tổ chức kháng chiến quân lập căn cứ trên đất Thái, rồi từ đó, những đoàn quân kháng chiến phục quốc bước những dặm đường mang dũng khí phục quốc… thế nhưng những câu chuyện về hành trình đó vẫn còn nhiều bí ẩn…
Trong số trên 200 kháng chiến quân ngày ấy, biết bao người đã anh dũng hy sinh, biết bao nhiêu người bị tù đày trong các nhà tù Việt Cộng, và có rất ít người còn sống sót, mà một trong những người ít ỏi đó chính là tác giả của tập hồi ký Phạm Hoàng Tùng…
Anh đã viết lại trang sử đầy máu và nước mắt nhưng cũng đầy hùng tráng này để lại cho hậu thế và cho những người còn sống một ánh hào quang về hình ảnh của những người kháng chiến quân phục quốc ngày nào…
Hai tập, gần 1000 trang sách, nhưng có lẽ vẫn chưa thể nào nói hết khí tiết tinh anh, dũng khí kiêu hùng,… của những chàng trai kháng chiến quân một thuở.
Người giới thiệu các tác phẩm này chính là anh Đỗ Thông Minh, một học giả hiện nay, một người trong số người khai sáng phong trào kháng chiến phục quốc ngày nào.
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng, cộng tác viên trang mục chính trị – cộng đồng của nhật báo Cali Today – phỏng vấn anh Đỗ Thông Minh khi anh đến San Jose ra mắt tác phẩm này.
Ông Đỗ Thông Minh nói: “San Jose từng là chiếc
nôi, nơi xuất phát của phong trào kháng chiến, và do vậy, hồi ký này được ra
mắt tại San Jose
trước nhất.”
Ngày ấy, Đỗ Thông Minh mái tóc còn đen, và bây giờ tóc đã bạc màu sương gió. Nhìn anh, anh Nguyễn Hồng Dũng thốt lên một câu thơ cổ:
“Việc nước chưa xong, đầu đã bạc…”
Tuy tóc đã bạc màu, nhưng khi bàn đến chuyện quốc sự, các anh vẫn còn sôi nổi như thưở nào.
Nguyễn Dương.
Saigon
Nhỏ ngày 2.9.2006
Ở điểm 3 của Chương Trình Hành Động, ông Nguyễn Ngọc Đức la toáng lên là Việt Tân đấu tranh không để nắm chính quyền và sẵn sàng đặt dưới sự lãnh đạo của các đoàn thể khác. Thôi đi mấy ông Việt Tân ơi, đừng giả bộ chơi chiêu "tôi đang dọn cổ cho mấy ông ăn đây" để câu khách. Quá trình hơn 2 thập niên lường gạt và tham quyền cố vị của mấy ông không thua gì Cộng Sản là bằng chứng hùng hồn về mấy ông, nên, "đừng nghe những gì Việt Tân nói, hãy nhìn kỹ những gì Việt Tân làm."
Houston ngày
29/9/2004.
đáp lễ cùng đồng bào
từ khu chiến
về dự Đại Hội Chính Nghĩa
trong 3 ngày 28-30/4/1983 tại Wa DC.
Cao điểm nhất của
hoạt động yểm trợ kháng chiến được đánh dấu bằng Đại Hội Chính Nghĩa tổ chức
trong 3 ngày 28-30/4/1983 tại Wa DC, thủ đô Hoa Kỳ.
Chủ Tịch Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng
Chiến
kết tụ 5 ngọn nến tượng trưng
cho người Việt ở khắp 5 châu.
Đoàn Văn Nghệ Kháng
Chiến có nơi như San Jose (Bắc Cali) lên tới khoảng hơn 200 người, Nam Cali
khoảng 120 người, Houston khoảng 80 người... Tính ra cũng có hàng mấy chục Đoàn
Văn Nghệ Kháng Chiến ở các nơi. Họ cất cao tiếng hát ca ngợi cuộc đấu tranh và
kêu gọi mọi người yểm trợ và đồng hương cũng đã nức lòng hưởng ứng. Không tháng
nào mà không có những buổi văn nghệ yểm trợ kháng chiến, có tháng 3, 4 nơi cùng
tổ chức.
Cuối năm 1984, khi
hay tin Mặt Trận đổ vỡ ở thượng tầng, biết bao người già trẻ đã phải khóc uất nghẹn, biết bao
người tức giận cùng cực vì cảm thấy bị phản bội. Biết bao cụ già
đứng đầu các Ủy Ban Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến cũng cảm thấy tủi hổ vì không
biết trả lời sao với đồng bào!?
Các ông Phạm Văn Liễu, Nguyễn Cao Kỳ…
trong một sinh hoạt yểm trợ kháng chiến
tại Nam Cali.
Do những tranh chấp nội bộ
này mà khí thế đấu tranh xuống dần, MT đã lập tổ chức yểm trợ khác gọi là Quỹ
Tiếp Vận Kháng Chiến, mức đóng góp giảm đáng kể, từ đầu thập niên 90 coi như MT
không còn quyên góp công khai từ đồng bào nữa.
Trích từ: Việc Yểm
Trợ Kháng Chiến Ở Hải Ngoại.
NIÊN
BIỂU MẶT TRẬN
Phần bên dưới đây do
cá nhân Phạm Hoàng Tùng chúng tôi trích từ tài liệu NIÊN BIỂU MẶT TRẬN QUỐC GIA THỐNG NHẤT
GIẢI PHÓNG VIỆT NAM - VIỆT NAM
CANH TÂN CÁCH MẠNG ĐẢNG do cựu sáng lập
viên MT, ông Đỗ Thông Minh biên soạn, và đã được đăng trong phần đầu của Hồi Ký
Hành Trình Người Đi Cứu Nước:
…
- 6/10/1982, Bác Sĩ
Hoàng Cơ Trường (em út ông Hoàng Cơ Minh, nguyên là Bác Sĩ binh chủng Thủy Quân
Lục Chiến, Ủy Viên Trung Ương Tổng Vụ Hải Ngoại, sáng lập và tổ chức các Đoàn
Văn Nghệ Kháng Chiến ở Nam - Bắc Cali, giai đoạn đầu quy tụ khoảng 200 đoàn
viên…) bị ung thư gan và đã mất tại Fresno, trung bộ Cali, lúc mới 42 tuổi.
Đoàn viên Mặt Trận ở hải ngoại mặc đồng phục áo nâu, quần vàng là theo mẫu đề
nghị của Bác Sĩ Hoàng Cơ Trường. Khi đưa đám ông Hoàng Cơ Trường, Đỗ Thông Minh
là một trong sáu người khiêng quan tài.
- 1/4/1982, cơ sở
nguyệt san Người Việt Tự Do tại San Jose, Cali, Mỹ biến thành cơ sở Mặt Trận,
bắt đầu phát hành nguyệt san Kháng Chiến, mỗi kỳ hơn 10.000 tờ, do Đỗ Thông
Minh làm Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút, đồng thời phụ trách cả tờ Đông Tiến số 1, phát
hành ngày 1/11/1982, là nội san của Vụ Nghiên Huấn.
Nhưng ngay từ đầu
năm 1983, Đỗ Thông Minh đã chán ngán về những tranh chấp nội bộ giữa ông Hoàng Cơ Minh và Phạm Văn
Liễu… ngày càng gia tăng, hệ thống điều hành bị đảo lộn, nên đã trở
về Nhật.
Ký giả Lê Thiệp
không phải là đoàn viên MT được Ngô Chí Dũng kêu từ miền Đông về thế làm báo độ
1 năm, sau trao lại ông Huỳnh Lương Thiện cũng từ Nhật qua làm cho tới khi
khủng hoảng Mặt Trận xảy ra cuối năm 1984. Trước áp lực của dư luận muốn biết
những thành quả cụ thể của công cuộc đấu tranh và để kích động lòng người, tờ
báo đã cho đăng nhiều tin chiến đấu, giải phóng ngụy tạo từ khu chiến đưa ra.
Khoảng cuối thập
niên 80, Mặt Trận ngưng phát hành báo Kháng Chiến, đổi qua nguyệt san Canh Tân
nhưng chỉ được vài năm…
- 3/4/1982, đồng bào
đứng ra lập Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến, cụ Phạm Ngọc Lũy được cử
làm Chủ Tịch. Cụ Phạm Ngọc Lũy nguyên là Thuyền Trưởng tàu Trường Xuân đã đưa
3.628 người đi tìm tự do tại Hồng Kông ngay 1 giờ 25 phút chiều ngày 30/4/1975.
Phong Trào Trung
Ương đã tổ chức lễ ra mắt trước hàng ngàn đồng hương tại Wa DC. Sau đó, gần 200
Ủy Ban Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến được thành lập tại khắp nơi trên thế giới,
kể cả trong nhiều trại tị nạn. Ngày 28/11/1982, khoảng 2.000 đồng bào đã tham
dự lễ ra mắt Ủy Ban Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến tại Paris …
Chưa bao giờ trong cộng đồng
người Việt lại có công cuộc vận động lớn lao như thế. Các nhà lãnh đạo tôn giáo như Phật Giáo,
Thiên Chúa Giáo, Tin Lành… cũng tham gia ủng hộ. Nữ tài tử Kiều Chinh và các
nghệ sĩ tích cực tham gia yểm trợ kháng chiến. Văn Nghệ Yểm Trợ Kháng Chiến tại
Long Beach ngày
28/8/1982 đã quy tụ 3.000 người… Khắp nơi, nhiều cụ già đã cởi cả vòng vàng ra đóng góp
mong cho ngày kháng chiến sớm thành công!
Lon Yểm Trợ Kháng
Chiến thời đó được đặt khắp mọi nơi. Nhiều phương thức yểm trợ như mua gạo ăn
của Ủy Ban Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến để gây quỹ thay vì mua bên ngoài, mua
dụng cụ y khoa, thuốc men gởi về khu chiến... Tổng số tiền Mặt Trận quyên góp từ đoàn viên và đồng hương cũng như các
thu nhập kinh tài… do ông Hoàng Cơ Định làm
Tổng Thư Ký kiêm Vụ Trưởng Vụ Tài Chính quản lý, được giữ bí mật, ước độ 10 triệu Mỹ kim?
- 29/12/1984, ông
Hoàng Cơ Minh nhân danh Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc cùng ông Nguyễn Trọng
Hùng từ khu chiến ra, hội họp khoảng 70 đoàn viên thuộc một số cơ sở vào buổi
chiều tại San Jose, Bắc Cali, công bố
văn thư cách chức ông Phạm Văn Liễu (sau đó cũng bỏ Phong Trào Quốc Gia Yểm
Trợ Kháng Chiến, lập Quỹ Tiếp Vận Kháng Chiến, đầu thập niên 90 hầu như không
còn quyên tiền đồng bào nữa).
Trong khi ông Trần
Minh Công nhân danh Khu Bộ Trưởng Bắc Mỹ kiêm Phát Ngôn Nhân… mở cuộc họp quy
tụ khoảng 200 đại diện các cơ sở Mặt Trận ở Bắc Mỹ với sự tham dự của ông Phạm
Văn Liễu, cụ Phạm Ngọc Lũy tại Nam Cali, bác
bỏ quyết định trên và bất tín nhiệm ông Hoàng Cơ Minh.
Nhiều đoàn viên thấy
chuyện tranh chấp vô phương cứu chữa đã phải bật khóc. Tranh chấp về việc đăng bài
trên tờ báo Kháng Chiến, khiến ông Huỳnh Lương Thiện khi đó là Chủ Nhiệm đã bất
chấp lịnh của Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh không cho in, rồi từ tòa soạn ở San Jose
bỏ qua Wa DC lánh nạn. Sau đó, Đỗ Thông Minh, Huỳnh Lương Thiện (11)… và hàng ngàn đoàn
viên dần dần từ bỏ Mặt Trận.
Có lẽ chưa bao giờ
người Việt phải chứng kiến cảnh chia rẽ, tan nát đáng đau buồn đến như vậy!?
Rất nhiều đoàn viên nam cũng như nữ không kềm được tiếng khóc uất nghẹn.
Một số đoàn viên tại
Mỹ đã tách ra lập tổ chức mới là Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam (không
có chữ Thống Nhất), khoảng 1 năm sau đổi thành Lực Lượng Việt Nam Tự Do. Năm
2006, còn khoảng hơn 100 đoàn viên hoạt động.
Các sự kiện này đã
làm tan nát niềm tin của đồng bào và dư luận thất vọng não nề! Những ngày hào
khí ngất trời không còn nữa và hầu như không
thể tái lập nữa!
- 1991, các ông
Hoàng Cơ Định (Dean Nakamura), Trần Xuân Ninh (Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoại)
và Nguyễn Xuân Nghĩa tức Nguyễn Đồng Sơn, mới tham gia sau đại hội Chính Nghĩa
1983, Vụ Trưởng Vụ Tuyên Vận) thuộc Mặt Trận kiện các ông Cao Thế Dung, Nguyễn
Thanh Hoàng (Chủ Nhiệm bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong) và Vũ Ngự Chiêu
(Nguyên Vũ, nhà xuất bản Đa Nguyên - Văn Hóa) về tội vu khống, mạ lỵ… (qua bộ 2
cuốn Mặt Trận Những Sự Thật Chưa Hề Được Kể và 3 bài báo của ông Cao Thế Dung
viết năm 1990 - 91 cho là Mặt Trận đã âm mưu sát hại vợ chồng ký giả Lê Triết
ngày 22/9/1990 tại Wa DC…) và đòi bồi thường 550.000 Mỹ kim.
Nhưng bên nguyên đã
bị tòa ở San Jose
xử thua kiện (với tỷ số bồi thẩm đoàn 11/12) qua phiên tòa kéo dài
5-22/12/1994, nên phải trả tốn phí khoảng 150.000 Mỹ kim.
- 10/4/1991, 5 nhân
vật lãnh đạo Mặt Trận là Nguyễn Kim Hườn, Hoàng Cơ Định và vợ là Phan Thị Hà, Nguyễn Tấn
Bính, Phan Duy Cần bất thần bị sở thuế
Mỹ truy tố về nhiều tội, như 26 tội không khai thuế, khai gian thuế, trốn thuế
trong việc quản lý tài chính Mặt Trận và trả lương... Mỗi người phải đóng
100.000 Mỹ kim để được tại ngoại.
Mặt Trận lập Quỹ
Pháp Lý vận động quyên góp đồng hương được khoảng 120.000 Mỹ Kim để lo vụ án.
Nhưng có lẽ qua sự thu xếp bên trong, sở thuế Mỹ đã để cho quá thời hạn và bãi
nại?
…
Đỗ Thông Minh.
Bài viết bên dưới này
do cá nhân PHT chúng tôi trích trong Phần Tài Liệu của Hồi Ký Hành Trình Người Đi
Cứu Nước.
ĐỖ
THÔNG MINH: NGƯỜI TÌM ĐƯỜNG
Đường
đời trăm vạn nẻo
Đâu
lối về cố hương?
Giao
Chỉ - San Jose 2006
Ông Đỗ Thông Minh
năm nay 56 tuổi, sinh năm 1950, quê Nam Định, có vợ và 3 con, hiện định cư tại
Đông Kinh, Nhật Bản.
Hơn 30 năm trước,
các sinh viên Việt Nam
còn trẻ du học tại Nhật Bản tên tuổi đều lịch sự ngon lành. Người thì “Thông Minh”
người thì “Lương Thiện”. Tên tuổi cha mẹ đặt cho như thế thì thật là vất vả một
đời. Phải cố gắng học hành và làm ăn tử tế.
Sau 30 tháng 4-1975,
đám sinh viên quốc gia chống Cộng du học trên thế giới đều bị hụt hẫng. Các anh
chị em Việt Nam
ở Đông Kinh cũng như vậy. Sau khi nỗ lực tìm cách giúp đỡ người tỵ nạn di tản
thì nhóm này là những người đầu tiên nghĩ đến đầu cầu Thái Lan khi tìm đường
trở về.
Tuy nhiên, tổ chức
“Người Việt Tự Do” tại Nhật Bản gồm toàn các thanh niên còn trẻ, dưới 30 tuổi.
Lòng hăng hái nhiệt thành sẵn có, nhưng hoàn toàn không có kinh nghiệm, không
có phương tiện, chưa tạo được sự tin tưởng và hoàn toàn vô danh đối với cộng
đồng tỵ nạn đã bắt đầu hình thành tại Hoa Kỳ. Họ đã từng đi qua Thái Lan, khi
thăm dò, gặp sứ quân tướng lãnh Thái Lan, ai cũng bảo rằng, phải đi Mỹ tìm cho
được một người đã từng đeo sao trên cổ áo.
Vì vậy, con đường về
quê hương phải bắt đầu bằng chuyến đi tìm lãnh tụ.
Đỗ Thông Minh, trong
những chuyến đi khởi đầu năm 1978, từ Đông Kinh qua Hoa kỳ đã tiếp xúc với các
hội đoàn và các vị tướng lãnh tỵ nạn. Ông muốn đi tìm một tướng công Việt Nam
Cộng Hòa thật sự muốn dấn thân trở về.
Ông đã đi gặp nhiều
các niên trưởng lãnh đạo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau cùng, ông đã gặp một
người thợ sơn bất đắc dĩ ở Virginia
đang bồn chồn nóng nảy muốn vất cây cọ để cầm lại cây súng, người đó là Phó Đề
Đốc Hoàng Cơ Minh.
Ngày 15 tháng
6-1981, có ba người đại diện cho ba tổ chức đã ngồi lại để mở đường cho chuyến
đi lịch sử. Tướng Hoàng Cơ Minh đại diện Lực Lượng Quân Dân, ông Trần Văn Sơn
của tổ chức Phục Hưng Việt Nam và ông Đỗ Thông Minh của tổ chức Người Việt Tự
Do. Ông Minh và ông Sơn đều thuộc Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã ngoài 45
tuổi, còn Đỗ Thông Minh mới có 31 tuổi.
Sau chuyến mở đường
tiếp xúc với phe quân sự Thái Lan được sự hứa hẹn đầy triển vọng, phái đoàn trở
về chuẩn bị.
Ngày 20 tháng
8-1981, nhóm công tác chính thức của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng
Việt Nam
lên đường đi lập chiến khu. Tổng cộng là 7 người và hầu hết hiện nay đã hy sinh.
Trong đó có các ông Hoàng Cơ Minh, Lê Hồng, Nguyễn Trọng Hùng, Trần Thiện Khải
v.v...
Ngày 20 tháng
10-1981, tổ chức Phục Hưng Việt Nam lúc đó có ông Trần Văn Sơn và một thanh
niên (từ San Jose?) là ông Đỗ Hùng lên đường qua Thái Lan tìm hiểu tình hình
tại chỗ.
Ngày 20 tháng
2-1982, Người Việt Tự Do gửi các ông Ngô Chí Dũng và Bùi Bằng Đoàn từ Nhật qua
Thái Lan. Ngô Chí Dũng phụ trách Trưởng đài phát thanh Việt Nam Kháng Chiến,
nay đã mất tích và Bùi Bằng Đoàn tức là Lý Thái Hùng của Việt Tân ngày nay.
Ngày 24 tháng
2-1982, các ông Đại Tá Phạm Văn Liễu, ký giả Hoàng Xuân Yên và giáo sư Trương
Bổn Tài từ Mỹ qua Thái dự lễ công bố công lĩnh chính trị. Một phóng viên TV của
CBS đã đi theo và quay được đoạn phim 5 phút lịch sử mở đường cho giai đoạn hào
hùng nhất của câu chuyện Kháng Chiến ra đời. Buổi lễ này tổ chức vào ngày 8
tháng 3-1982.
Ngày 31 tháng 3-1982
với mấy phút trong bản tin thời sự buổi chiều truyền đi khắp nước Mỹ do Dan
Rather của CBS giới thiệu đã làm rung động toàn thể cộng đồng Việt hải ngoại.
Hòa nhịp theo những xúc động của mọi người, Giao Chỉ đã viết bài văn đầu tiên
cho Kháng Chiến có tựa đề là “Đường Mòn Hoàng Cơ Minh.”
Rồi Tổng Vụ Hải
Ngoại thành lập trong giai đoạn sơ khởi tổ chức đã từng chỉ định ông Huỳnh
Lương Thiện làm Tổng Vụ Phó cho cựu Đại Tá Liễu trong chức vụ Tổng Vụ Trưởng,
nhưng về sau ông Thiện chỉ thực sự nhận làm báo Kháng Chiến.
Trong vai trò đại
diện tổ chức Phục Hưng, giáo sư Ngô Đức Diễm cũng đã từng đảm trách Phát Ngôn
Viên (Tổng Thư Ký?) của Kháng Chiến một thời gian ngắn. Nhưng về sau vì bất
đồng quan điểm nên chỉ còn Người Việt Tự Do và Lực Lượng Quân Dân chính thức
giải tán để thành lập Mặt Trận. Riêng tổ chức Phục Hưng rút lui.
Bắt đầu từ 1 tháng
4-1982, tờ nguyệt san Người Việt Tự Do tại San Jose cải tổ thành cơ sở chính
thức của Mặt Trận. Ông Đỗ Thông Minh làm Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút báo Kháng Chiến
đầu tiên, phát hành 10 ngàn số mỗi kỳ. Cách nay 25 năm, đây là con số phát hành
kỷ lục.
Tuy nhiên đến năm 1983, bắt đầu có xích mích
nặng ở thượng tầng, ông Đỗ
Thông Minh về lại Nhật Bản, báo Kháng Chiến do ký giả Lê Thiệp đảm trách một
năm rồi giao lại ông Huỳnh Lương Thiện cho đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng Mặt
Trận bể làm hai giữa ông Liễu và ông Minh.
Như vậy, lịch sử
Kháng Chiến Phục Quốc của tướng Minh thật sự đã ra đời và nằm trong nôi tại San
Jose với nhiều tên tuổi, nhân chứng vẫn còn có mặt hôm nay. Ông Hoàng Xuân Yên,
ông Trương Bổn Tài, Đỗ Hùng, Ngô Đức Diễm, Huỳnh Lương Thiện cùng nhiều người
khác và đặc biệt với người nhân chứng mở đường là Đỗ Thông Minh.
Có người ghé qua
chốc lát, có người đi bên nhau chỉ một đoạn đường. Rồi sau đó...
Anh đi đường anh,
tôi đường tôi.
Tình nghĩa đôi ta có
thế thôi.
Xem ra, cuộc giã từ
sớm sủa của Phục Hưng và lưu luyến thêm vài năm sau của Người Việt Tự Do đối
với Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh lại là những cuộc chia ly đẹp đẽ nhất vào thời kỳ
80.
Ba sáng lập viên MTQGTNGPVN.
Trái qua phải:
Đỗ Thông Minh, Trần Văn Sơn, Hoàng Cơ Minh
ở Bangkok ,
Thái Lan (15-21/6/1981).
Ảnh nguồn: Hồi Ký Kháng Chiến
Hành Trình Người Đi Cứu Nước
của Phạm Hoàng Tùng.
Cá nhân PHT chúng tôi đưa hình vào bài viết
để minh họa sự kiện.
* * *
Từ giã Kháng Chiến,
Đỗ Thông Minh trở lại Đông Kinh gây dựng cơ sở Tân Văn. Theo gương người xưa,
ông đi con đường của một thời Đông Kinh Nghĩa Thục.
Từ Nhật Bản, Đỗ
Thông Minh ngày nay không còn vất vả đi tìm lãnh tụ. Ông lấy công việc biên
khảo và xuất bản là trọng tâm công tác. Ông nghiên cứu để phát huy văn hóa Việt
Nam
tại hải ngoại cũng như trong nước và giao lưu Việt-Nhật.
Những sự đóng góp về
văn hóa của ông qua nhiều năm đã trở thành một kho tàng biên khảo đồ sộ với các
loại tự điển Hán, Việt, Anh, Nhật và tự điển tin học. Ông cũng là người tổ chức
kỷ niệm và ra sách 100 Năm Phong Trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, Cường Để
cũng như 100 Năm Phong Trào Duy Tân của cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và
Trần Quý Cáp…
Qua hệ thống điện
toán, ông đã cộng tác với rất nhiều cơ quan truyền thông hải ngoại, đã du
thuyết hàng trăm lần trên khắp thế giới, đặc biệt đẩy mạnh từ năm 2002, với mục
tiêu sơ khởi là đi nói chuyện trong 10 năm và đồng thời cũng đã được các chương
trình Radio, TV khắp nơi phỏng vấn về mọi đề tài.
Với địa vị đặc biệt
đã xây dựng nhiều năm tại Đông Kinh, ông là người Việt bắc nhịp cầu giữa Nhật
Bản và cộng đồng Việt hải ngoại. Tính từ 1978 đến 2006, ông đã đi gần khắp năm
châu bốn bể nhiều lần để thuyết trình về các đề tài văn học. Đặc biệt từ Tokyo , ông đã đi Mỹ tổng
cộng 27 lần. Nhiều phái đoàn Việt Nam
từ hải ngoại qua Nhật Bản đều nhờ sự hướng dẫn của cơ sở Mekong
do Đỗ Thông Minh thành lập.
Mặc dù còn trẻ nhưng
Đỗ Thông Minh không phải là người hoàn toàn khỏe mạnh. Người học giả tâm huyết
và nhiệt thành của cộng đồng Việt hải ngoại hiện đã hoàn toàn bị hư hai trái
thận. Suốt bao nhiêu năm qua, ông còn sống được là nhờ một trái thận do vợ hiền
trao tặng từ năm 1990.
Con người một thời
mở đường cho Kháng Chiến, con người đã đóng vai kẻ tìm đường từ năm 1980. Một
Pathfinder của thế giới người Việt tỵ nạn, thành viên sáng lập của tổ chức
Người Việt Tự Do ở Nhật Bản một thời mơ mộng: “Mai này chúng ta cùng về Việt Nam. ”.
Bây giờ ông đã tìm thấy lối đi. Con đường về quê hương của Đỗ Thông Minh đi
theo ngả văn hóa, với hành trang tin học, tự điển, bài viết về Việt - Hán -
Nôm… và loạt bài Tự Vấn với hoài bão thay đổi tư duy của người Việt, hầu vượt
thoát quãng tụt hậu hiện nay.
Một trái thận của vợ
luôn luôn đeo trong mình. Trên chuyến bay viễn du vòng quanh thế giới để đi nói
chuyện văn hóa, học giả Đỗ Thông Minh của chúng ta mỗi khi nhớ thương vợ hiền
để lại quê người, ông không để tay lên trái tim như thiên hạ thường tình, ông
để tay vào bụng, để chắc chắn rằng, trái thận của tình yêu vẫn còn đang làm
việc.
Tháng 9 năm nay, Đỗ
Thông Minh từ Đông Kinh trở lại Hoa Kỳ lần thứ 28 trong chuyến đi 7 tuần, nói chuyện tại 14 nơi. Ông sẽ không nói
chuyện văn hóa hay luận bàn về chuyện người Việt xấu tốt ở chỗ nào. Sau khi
chia tay với Kháng Chiến 20 năm trước, lần này Đỗ Thông Minh trở lại Thung Lũng
Hoa Vàng San Jose, Cali để làm nhân chứng cho Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh.
Ông Đỗ Thông Minh sẽ
thay mặt cho kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng, tác giả cuốn hồi ký kháng chiến
Hành Trình Người Đi Cứu Nước, còn đang mang nặng kiếp lưu đày ở Cam Bốt, đem
đến San Jose bản báo cáo cuối cùng của một kháng chiến quân còn sống sót. Ông
sẽ nói về cái chết của tướng Hoàng Cơ Minh, người mà ông đã một thời tin tưởng
là sẽ mở được đường về và các kháng chiến quân...
Đây là một cuốn sách được chờ
đợi 25 năm sẽ ra mắt lần đầu tiên tại San
Jose .
Xin nhắc lại vào đầu
thập niên 80, Kháng chiến Hoàng Cơ Minh ra đời tại San Jose và bây giờ vào năm
2006, tác phẩm viết về câu chuyện người đi cứu nước bên kia biên giới sẽ được
coi như bản phúc trình tổng kết của một
giai đoạn tranh đấu bằng võ lực.
Câu chuyện dài hào
hùng, đau thương và cay đắng vẫn kéo dài những thắc mắc đến ngày nay.
Bao nhiêu người đã
chết, bao nhiêu người còn sống. Bao nhiêu lần ngồi lại và bao nhiêu lần chia
tay.
Chương trình ra mắt
sách vào chiều thứ Bảy 30 tháng 9-2006 tại San Jose sẽ được chuẩn bị chu đáo,
có chiếu phim về công cuộc kháng chiến phục quốc từ Trần Văn Bá (Pháp Quốc) đến
Võ Đại Tôn (Úc Châu) và Hoàng Cơ Minh (Hoa Kỳ).
Quan khách sẽ được
nghe các bản nhạc chiến khu bất hủ của kháng chiến quân Trần Thiện Khải, người
đã tự sát tại Hạ Lào để khỏi rơi vào tay địch.
Trong chúng ta ai mà
chẳng nghĩ đến quê hương đất nước. Nếu muốn biết sự thật về câu chuyện 10 năm
kháng chiến từ 1981 đến 1990 tại Đông Nam Á, buổi ra mắt sách sẽ là câu trả lời cho mọi trăn trở suốt bao năm qua.
Từ sau 1990 cho đến
nay, một trang lịch sử đấu tranh mới đã mở ra mặt trận chính trị. Con đường mới
là con đường đòi hỏi dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam . Nhưng lòng người vẫn còn thắc
mắc chưa giải tỏa về giai đoạn ngày xưa đã mở đường về nước bằng súng đạn nhưng
không thành. Bộ hồi ký 2 cuốn dày 932 trang của một người đi cứu nước sẽ giúp
chúng ta có các chứng liệu để suy ngẫm.
Mặc dù tác phẩm có
giá trị nhân chứng nhưng thực tế vẫn có thể còn đem đến nhiều sự phê phán.
Những nhận xét của tác giả về chuyện xảy ra trên thế giới, trong nước và về cộng
đồng Việt hải ngoại phải được coi như hoàn toàn có tính cách cá nhân với sự
hiểu biết và tin tức giới hạn. Ngoài ra, phần viết về quan điểm xây dựng đất
nước đều hoàn toàn chủ quan với nhận xét riêng của tác giả.
Ngoài ra, một vài
đoạn ghi lại những dữ kiện trong những năm đi kháng chiến vẫn còn có thể coi
như chưa phải là chính thức. Những sự kiện mắt thấy tai nghe còn lẫn với chuyện
được tác giả nghe kể lại trong tù. Độc giả đọc sách vẫn cần phải tự gạn lọc để
nhận thức các điểm nào xác tín và các điểm hoài nghi.
Sau cùng, đây là một
cuốn sách cần tìm đọc và việc thẩm định sau cùng trong tay quý độc giả. Người
đem cuốn sách từ Đông Kinh đến San
Jose là Đỗ Thông Minh, người tìm đường của thập niên
80. Hy vọng rằng, cuốn hồi ký là bản báo cáo của những người vừa thông minh vừa
lương thiện.
Thế hệ sau này học
được nhiều qua gương thành công của tiền nhân. Nhưng hậu thế cũng học được qua
những bài học thất bại của người đi trước. Những người đã xả thân viết nên bài
học đau thương để làm nền móng đấu tranh cho đời sau. Từng thế hệ nối tiếp phải
thay nhau lên đường.
Xa xa phía trước vẫn
là những kẻ dò đường. The Pathfinder. Đỗ Thông Minh là một trong những người
tìm đường của chúng ta.
Một lần nữa, San
Jose chào đón con người đã có lần tạm cư ở đất này, làm báo “Người Việt Tự Do”
ấn bản Bắc Mỹ và sau trở thành báo Kháng Chiến.
Đó là thời kỳ của
những năm 80.
Cuốn sách của ông giới thiệu sẽ
nằm trong thư viện của Viện Bảo Tàng Việt Nam
tại San Jose .
Trong phần thư mục của trang sử Kháng Chiến Phục Quốc hết sức hào hùng và bi
thảm. Chính những trang sử
của thất bại sẽ hạ sinh những thành quả vẻ vang trong tương lai. “Thất bại là
mẹ thành công.” Những sự hy sinh cao quý không bao giờ vô ích, vì vậy sẽ không
bao giờ bị lãng quên.
Xin mời quý vị đến
với “Hồi Ký Của Người Đi Cứu Nước.”
Thứ Bảy 30 tháng
9-2006, một
ngày làm sống lại cả 25 năm trước.
Giao Chỉ - San Jose, 2006
Bài thơ này do cá
nhân PHT chúng tôi trích từ Phần Ý Kiến Bạn Đọc trong Hồi Ký Hành Trình Người Đi
Cứu Nước.
Cảm
Nghĩ Của Một Độc Giả Khi Đọc
“Đốm
Lửa Quê Người”
viết
về các kháng chiến quân của
Giao
Chỉ Vũ Văn Lộc
Ngậm ngùi thương cảm những người đã hy sinh cuộc sống và sinh
mạng cho lý tưởng, cho đất nước, trong bài “Đốm Lửa Quê Người” của Đại Tá Vũ
Văn Lộc, bút hiệu Giao Chỉ. Bài này đăng trên Đàn Chim Việt, DCVOnline.
Leo lét sáng giữa rừng đen đậm đặc,
Áng đèn đêm trong khu vực Hạ Lào,
Ánh đèn ơi, gợi buồn nhớ biết bao,
Những buổi tối quê nhà sao hạnh phúc.
Từ 75, khi đi lòng đã quyết,
Dù biết trăm phần chết vẫn ơ hờ,
Tìm đường về kháng chiến chống cộng nô,
Cương quyết làm việc vá trời đội đá.
Lập chiến khu ở Thái Lan, Cam Bốt,
Vượt núi đồi, rừng, biển rộng về Nam ,
Âm thầm đi khi bóng tối giăng màn,
Tự khắc phục bao khó khăn, gian khổ.
Thần chết chờ từng bước đi, cử động,
Ngàn địch quân theo rình rập săn mồi,
Vài trăm quân kháng chiến quá nhỏ nhoi,
Lừng lững bước, phó đời cho mệnh số.
Máu đã tuôn, bao thân người đã đổ,
Chết trong tù hay chết giữa rừng già,
Bởi đạn thù hay bởi đạn của ta,
Hào hùng quá một
đời trai chí cả.
Người bị bắt chốn lao tù chịu khổ,
Đã bao năm vẫn chưa có
ngày ra,
Chiến đấu thành công, mừng có tự do,
Còn thất bại xin ai cho phát súng.
Cuộc tranh đấu ôi tang thương, bi thảm,
Hiến dâng về đất mẹ với tương lai,
“Đèn nhà ai hay đốm lửa quê người” (*)
Trong u tối sáng soi lòng yêu nước.
(*) “Này em, anh sẽ
về bên kia biên giới.
Đèn nhà ai hay đốm
lửa quê người.”
Hai câu trong nhạc
phẩm “Trăng Chiến Khu” của kháng chiến quân kiêm nhạc sĩ Trần Thiện Khải, đã tự
sát sau khi bị thương trên đường
Đông Tiến từ Thái Lan về Việt Nam .
Nguyễn P. Thúy
August 16, 2006.
Trao
đổi với học giả Đỗ Thông Minh từ Nhật Bản
về
hồi ký 2 tập Hành Trình Người Đi Cứu Nước
của Phạm Hoàng Tùng
Ảnh nguồn: Cali Today.
Thời gian trôi qua khá lâu từ ngày các tổ chức kháng chiến quân lập căn cứ trên đất Thái, rồi từ đó, những đoàn quân kháng chiến phục quốc bước những dặm đường mang dũng khí phục quốc… thế nhưng những câu chuyện về hành trình đó vẫn còn nhiều bí ẩn…
Trong số trên 200 kháng chiến quân ngày ấy, biết bao người đã anh dũng hy sinh, biết bao nhiêu người bị tù đày trong các nhà tù Việt Cộng, và có rất ít người còn sống sót, mà một trong những người ít ỏi đó chính là tác giả của tập hồi ký Phạm Hoàng Tùng…
Anh đã viết lại trang sử đầy máu và nước mắt nhưng cũng đầy hùng tráng này để lại cho hậu thế và cho những người còn sống một ánh hào quang về hình ảnh của những người kháng chiến quân phục quốc ngày nào…
Hai tập, gần 1000 trang sách, nhưng có lẽ vẫn chưa thể nào nói hết khí tiết tinh anh, dũng khí kiêu hùng,… của những chàng trai kháng chiến quân một thuở.
Người giới thiệu các tác phẩm này chính là anh Đỗ Thông Minh, một học giả hiện nay, một người trong số người khai sáng phong trào kháng chiến phục quốc ngày nào.
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng, cộng tác viên trang mục chính trị – cộng đồng của nhật báo Cali Today – phỏng vấn anh Đỗ Thông Minh khi anh đến San Jose ra mắt tác phẩm này.
Ông Đỗ Thông Minh nói: “
Ngày ấy, Đỗ Thông Minh mái tóc còn đen, và bây giờ tóc đã bạc màu sương gió. Nhìn anh, anh Nguyễn Hồng Dũng thốt lên một câu thơ cổ:
“Việc nước chưa xong, đầu đã bạc…”
Tuy tóc đã bạc màu, nhưng khi bàn đến chuyện quốc sự, các anh vẫn còn sôi nổi như thưở nào.
Nguyễn Dương.
Bài này cá nhân Phạm
Hoàng Tùng chúng tôi trích từ diễn đàn liên mạng để bạn đọc blog có cái nhìn rõ
thêm về Việt Tân.
Tú
Gàn
Tìm
đường trở về?
Chúng
ta còn nhớ, sau nhiều năm im lặng, ngày 20.7.2001, “Mặt Trận Quốc Gia Thống
Nhất Giải Phóng Việt Nam”, thường được gọi là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, đã chính
thức thông báo cùng thân hữu và đồng bào rằng các lãnh đạo sau đây của Mặt Trận
là Hoàng Cơ Minh, Lê Hồng, Trần Thiện Khải, Võ Hoàng đã “anh dũng hy sinh trên
bước đường tranh đấu giải phóng Tổ Quốc”.
Thông
báo cũng cho biết Lễ Truy Điệu các Chiến Hữu Lãnh Đạo cùng toàn thể các Kháng
Chiến Quân và Đoàn Viên Mặt Trận đã hy sinh vì Tổ Quốc sẽ được cử hành trọng
thể vào ngày 26.8.2001 tại một số thành phố trên thế giới, địa điểm sẽ được các
Ủy Ban Tổ Chức thông báo trong những ngày tới.
Kể
từ đó, hàng năm Mặt Trận (nay là Đảng Việt Tân) đều có tổ chức lể tưởng niệm
các chiến sĩ đã hy sinh nói trên, lúc nơi này, lúc nơi khác.
Nhưng
năm nay, Đảng Việt Tân “êm re”. Được hỏi ngày 28 tháng 8, ngày kỷ niệm Tướng
Hoàng Cơ Minh hy sinh sắp đến rồi mà tại sao không thấy Đảng Việt Tân động tĩnh
gì cả, nhưng người thuộc nhóm “kiên định” vừa ly khai cho rằng ban lãnh đạo
Đảng Việt Tân đã thay đổi đường lối sau đại hội tháng 9 năm 2004, muốn về tham
gia chính trị ở trong nước, nên không tổ chức truy điệu nữa, vì sợ việc truy
điệu sẽ ảnh hưởng không tốt đến chủ trương “hòa giải hòa hợp”.
Đây
chỉ là ý kiến của phía “kiên định.” Cuối cùng, Đảng Việt Tân đã “xuất hiện” và
tổ chức lễ tưởng niệm!
Thật
ra, việc tưởng niệm Tướng Hoàng Cơ Minh và các chiến sĩ đã hy sinh trong ba chiến dịch Đông Tiến
do Mặt Trận tổ chức là rất chính đáng, vì họ là những người đã sẵn sàng hy sinh cho một nước Việt Nam
tự do hơn, dân chủ hơn và phú cường hơn, mặc dầu những nỗ lực của họ bị thất
bại. Sự hy sinh của họ đáng được mọi người ghi nhớ và noi gương.
SỰ RA ĐI CỦA TƯỚNG HOÀNG CƠ
MINH
Mặc dầu Mặt Trận
không chính thức cho biết Tướng Hoàng Cơ Minh đã hy sinh lúc nào và trong
trường hợp nào, nhưng những tin tức do các chiến hữu của Tướng Minh cho biết
rất chính xác.
Ngày 28.8.1987,
hãng thông tấn UPI viện dẫn tin từ đài phát thanh Lào cho biết Tướng Hoàng Cơ
Minh đã tử trận. Nguyễn Tấn Phát, một chiến hữu của Tướng Hoàng Cơ Minh cho
biết những điều anh đã chứng kiến như sau:
Trong ngày 27.8.1987
các Quyết đoàn của Mặt Trận đi qua đất Lào đã bị Cộng quân truy đuổi rất gắt,
nhiều chiến sĩ đã bị ngả gục. Cánh tay của Tướng Minh bị thương tuần trước sưng
vù lên, rất đau đớn. Sáng ngày 28.8.1987, vào khoảng 8 giờ, khi đoàn quân băng
qua một con suối thì bị địch phục kích. Tướng Minh liền ra lệnh cho Dân Đoàn
Cận Vệ gồm các anh Đỗ Bạch Thố và Trần Đế, tháo chạy ngược hướng với ông.
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 28.8.1987,
khi thấy không còn chịu đựng nổi trọng
pháo của địch, Tướng Minh đã rút súng Browning 3,2mm ra và dùng cánh tay trái
bóp cò vào mang tai tự sát để khỏi bị lọt vào tay địch. Bốn chiến hữu khác gồm
Khánh và 3 người nữa đến từ Hoa Kỳ là Huy, Hưng và Đẩu cũng rút súng tự sát
theo.
Lời tường thuật nói
trên của Nguyễn Tấn Phát đã được một số chiến hữu khác cùng tham gia chiến dịch
Đông Tiến II như Đinh Văn Bé, Trần Đế, Đỗ Bạch Thố, Nam Trật Duột, Võ Kỳ
Phát... xác nhận. Những sự hy sinh như vậy phải được trân trọng tưởng niệm và
vinh danh. Chúng tôi không bao giờ nghĩ rằng một sự tưởng niệm đó có thể gây
trở ngại cho việc đấu tranh chính trị của Đảng Việt Tân ở trong nước.
THAY ĐỔI LÀ CHUYỆN ĐƯƠNG
NHIÊN
Sau khi Việt Cộng
chiếm miền Nam ,
nhiều người và tổ chức ở trong nước và hải ngoại đã hình thành các lực lượng để
đấu tranh bằng quân sự với Việt Cộng.
Nhưng sau khi các
chế độ cộng sản Đông Âu và Liên Sô sụp đổ, Hoa kỳ và các quốc gia Tây phương từ
bỏ chiến tranh lạnh và đấu tranh bằng quân sự, đổi qua đấu tranh bằng chính trị
và kinh tế, dùng chiến thuật “diễn biến hòa bình” để làm biến mất dần các chế
độ cộng sản còn lại, Đài Loan và Nam Hàn là những nước chống cộng hàng đầu ở
Đông Nam Á, đã đi theo Hoa Kỳ ngay.
Chỉ một số người
Việt chống cộng ở hải ngoại là nhất quyết đi theo chiến lược và chiến thuật cũ.
Khi lội ngược dòng như vậy, người Việt chống cộng chẳng những không tiến lên
được chút nào mà cứ bị đẩy lui dần: Mỹ tái lập bang giao với kẻ cựu thù là
CSVN, ký hiệp ước thương mại với CSVN, mở đường cho Việt Nam vào tổ chức Mậu
Dịch Quốc Tế (WTO) và còn muốn tiến tới ký hiệp ước quân sự với CSVN.
Trước tình hình như
vậy, Mặt Trận hay Đảng Việt Tân, một tổ chức chính trị có thực lực nhất của
người Việt hải ngoại hiện nay, cũng nghĩ rằng không còn con đường nào khác là
thay đổi chiến lược và chiến thuật để có thể nương theo chiến lược và chiến
thuật của Hoa Kỳ và các nước Tây Phương để tiến lên, như Đài Loan và Nam Hàn đã
làm.
Thay đổi phải được
coi là chuyện đương nhiên. Vấn đề được đặt ra là liệu Mặt Trận hay Đảng Việt
Tân có khả năng làm được chuyện đó hay không, hay lại bị rơi vào mạng lưới của
địch như cuộc đấu tranh quân sự?
Trước khi trả lời
câu hỏi này, chúng tôi xin duyệt lại kế hoạch đấu tranh quân sự của Mặt Trận và
nguyên nhân thất bại của kế hoạch này để rút bài học kinh nghiệm cho cuộc đấu
tranh chính trị hiện nay.
THẤT BẠI CỦA ĐẤU TRANH QUÂN
SỰ
Tướng Dương Văn Tư (Trái),
Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh (giữa),
và Tư Lịnh Lực
Lượng Võ Trang Chiến Việt Nam ,
Tướng Đặng Quốc Hiền tức Lê Hồng (phải),
trong khu chiến Mặt Trận.
Ảnh nguồn: Hồi Ký Kháng Chiến
Hành Trình Người Đi Cứu Nước.
Cá nhân Phạm Hoàng Tùng chúng tôi
đưa hình vào bài viết này
để minh họa sự
kiện.
Chúng tôi đã tường
thuật nhiều lần về sự hình thành và tổ chức của Mặt Trận. Ở đây chúng tôi chỉ
ghi lại chiến thuật đấu tranh bằng quân sự của Mặt Trận và tìm hiểu tại sao nó
đã thất bại.
Trong
cuốn “Hồi
Ký Kháng Chiến” nói về “Bí Mật Kháng Chiến Hoàng Cơ
Minh” sẽ được xuất bản trong thời gian gần đây, anh
Phạm Hoàng Tùng, một kháng chiến quân của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, đã kể lại
những điều mắt thấy tai nghe về “KHU CHIẾN HOÀNG CƠ MINH” và ba chiến dịch Đông
Tiến đã được thực hiện để xâm nhập vào Việt Nam, trong đó đã mô tả lại khá rõ
về “Khu Chiến Hoàng Cơ Minh”.
Đọc
phần này, chúng ta sẽ thấy được cách tổ chức đấu tranh quân sự của Mặt Trận.
Câu chuyện chuẩn bị cho chiến dịch Đông Tiến I tại Khu Chiến đã được anh Phạm
Hoàng Tùng kể lại đại khái như sau:
1.-
Câu chuyện trong Khu Chiến: Địa bàn khu chiến Hoàng
Cơ Minh thuộc tỉnh U Bon Rat Cha Tha Ni, Thái Lan. Đây là một tỉnh miền Đông
Thái nằm sát với biên giới Lào. Tỉnh lỵ của U Bon Ra Cha Tha Ni nằm ở Bắc vĩ
tuyến 15. Từ U Bon, ngó qua biên giới phía Đông là vùng đất bao gồm 4 tỉnh miền
Nam Lào: Xa La Van, Sê Koông, Cham Pa Xắc và An Ta Pư...
Lúc đó tại khu chiến có 4 Quyết Đoàn võ trang kháng
chiến. Một Quyết Đoàn đủ quân số có khoảng 40 kháng chiến quân, được chia thành
3 Dân Đoàn, mỗi Dân Đoàn có 12 kháng chiến quân. Bộ Chỉ Huy
Quyết Đoàn có 5 chiến hữu. Chiến Dịch Đông Tiến I được tiến hành vào gần cuối
mùa mưa năm 1985, và Quyết Đoàn 7685 được chọn để thi hành nhiệm vụ lịch
sử này.
Những
kháng chiến quân được chọn tham gia chiến dịch đang công tác tại các đơn vị
khác nhau trong khu chiến, nên đã được bố trí về Quyết Đoàn 7685 để luyện tập
di hành trên nhiều địa hình nhằm thử thách thêm sự chịu đựng. Ngoài ra còn tham
dự học hành chính trị, sinh hoạt với các chiến hữu đồng đội trong Toàn hay Dân
Đoàn, qua khung cảnh tinh thần sôi nổi chuẩn bị lên đường nhập Việt. Cạnh đó,
các chiến hữu chỉ huy các đơn vị cơ bản của Quyết Đoàn được tái tổ chức, cho
phù hợp với nhiệm vụ sắp tới.
Một
công tác chính trị quan trọng khác được tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị này
là mở đợt kết nạp đảng viên Đảng Việt Tân. Hầu như tất cả các kháng chiến quân
tham dự chiến dịch Đông Tiến I đều được kết nạp. Đây cũng là bước khởi đầu của
cuộc vận động kết nạp các kháng chiến quân trong khu chiến vào Đảng Việt Tân...
Vào
gần cuối mùa mưa 1985, chiến hữu Dương Văn Tư, Tư Lịnh Phó Lực Lượng Võ Trang
Kháng Chiến, được coi như là vị chỉ huy quân sự cao cấp nhất tại khu chiến, vì
chiến hữu Lê Hồng đã qua đời trong khu chiến vào giữa năm 1985. Chiến hữu Dương
Văn Tư đã được lãnh đạo MT bổ nhiệm làm
Tư Lịnh tối cao của chiến dịch Đông Tiến
I.
Sở
dĩ chiến hữu Dương Văn Tư được chọn làm Tư Lịnh, thống lĩnh toàn bộ
chiến dịch xâm nhập Việt Nam và xây dựng khu chiến quốc nội cho MT, là vì các
lãnh đạo MT đã khảo sát và biết ông là nhân vật có khá nhiều kinh nghiệm quân
sự trong chiến tranh Việt Nam trước đây, đồng thời có uy tín lãnh đạo cao qua
việc điều hành các đơn vị võ trang tân lập trong môi trường cách mạng. Và chừng
mực nào đó, ông Tư có uy tín ít nhiều trong giới quân nhân VNCH.
Chiến
hữu Huỳnh Trọng Hà, cựu sĩ quan Biệt Động Quân, đã định cư tại Nhật nhưng
tình nguyện về khu chiến tham gia kháng chiến và được cử làm Chỉ Huy Trưởng
Quyết Đoàn 7685. Anh Hà khi về khu chiến cũng trải qua những ngày tháng huấn
luyện đầu tiên như những kháng chiến quân khác.
Những
ngày chuẩn bị cho Đông Tiến I, tôi thấy anh Hà thỉnh thoảng đến căn cứ 27 nhận
chỉ thị từ chiến hữu Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh. Lần cuối tôi gặp anh Hà tại căn cứ
27, với bộ đồ kaki cũ, có màu xanh của loại quần áo jean, áo dài tay, chân mang
bata, đầu đội nón lưỡi trai cũng màu xanh.
Đứng
từ xa thấy anh Hà, tôi mường tượng đến dáng dấp chiến hữu Lê Hồng, Tư Lịnh Lực
Lượng Võ Trang trước đây. Hai người có tướng dáng tựa nhau, nhưng anh Huỳnh
Trọng Hà hơi cao hơn anh Lê Hồng một chút.
Bên
cạnh việc chuẩn bị về điều phối nhân sự, tại căn cứ 84, các hoạt động liên hệ
cho công tác này cũng rộ lên. Một số kháng chiến quân được phân công chế biến
các loại thực phẩm khô, dùng lâu ngày trong rừng núi, như nước mắm nấu cho cô,
đặc lại thành từng cục và bỏ vào các chai, lọ nhỏ, để ăn với cơm.
Thịt
gà làm xong, xương và ít bộ phận khác được ăn trước, sau đó phần lớn thịt còn
lại được xào mặn, sấy khô, ép kín trong các bọc nylon hay chai nhỏ bằng nhựa
thật nhẹ, dùng làm thực phẩm ăn lâu ngày. Muối, ớt rang khô được cất giữ trong
bọc nylon. Các túi gia vị có trong những gói mì ăn liền của Thái, được trút ra,
gom trữ lại trong các bọc nilon, nhỏ gọn nhẹ.
Qua
kinh nghiệm di hành trong địa hình rừng núi ở khu chiến, các loại lương thực,
thực phẩm, gia vị... đều phải làm khô, mặn, gọn nhẹ, trữ lâu ngày được, để tiện
lợi cho kháng chiến quân khi di chuyển dài ngày, trong điều kiện rất khó có
tiếp tế, đồng thời phải có bổ dưỡng, ít bị hư hỏng.
Vài
kháng chiến quân có khiếu may mặc, nhận nhiệm vụ gấp rút hoàn thành nhiều ba lô
màu nâu đất, không lớn không nhỏ quá, mặt trong ba lô có may dính lá cờ vàng ba
sọc đỏ. Võng nằm được đặt mua ngoài Thái, được may sửa lại cho chắc chắn, không
rộng, không hẹp, thêm một tấm mùng ny-lông nhỏ tránh muỗi, phủ bên ngoài võng,
nhằm bảo đảm sức khỏe cho kháng chiến quân.
Các
thỏi vàng được nấu, chế lại thành từng khoen hay cục nhỏ dễ giấu cất. Đây là
tài nguyên quan trọng của đoàn quân đã rời căn cứ thân thương nơi rừng núi xứ
người để trở về đất mẹ. Vàng dùng để mua lương thực trên đường di chuyển hay
làm phát triển kế hoạch kháng chiến tại khu chiến ở Việt Nam cũng như mua súng
đạn, lương thực, các trang bị cần thiết cho cuộc đấu tranh sẽ phát sinh từ nhu
cầu mới, chuẩn bị các lớp huấn luyện các tân kháng chiến quân tại nội địa...
Trong
thời gian sửa soạn cho chiến dịch, chiến hữu Trương Văn Lên, một thanh niên trẻ
quê ở Cambodia, trước đây sống bằng nghề thợ bạc, được phân công về căn cứ 84
làm nhiệm vụ nấu vàng, chế biến lại theo nhu cầu MT. Việc đưa anh Trương Văn
Lên về căn cứ 84 công tác, mặc dù bảo mật, nhưng không qua các cặp mắt tò mò
của một số kháng chiến quân trong khu chiến. Phải chăng đây là nguyên nhân dẫn
đến các hậu quả tai hại sau này, khi đoàn quân rời khu chiến?
Những
ngày trước khi khai diễn chiến dịch Đông Tiến I, tôi tham dự công tác đi tải từ
căn cứ 84 tới 27, thỉnh thoảng có thấy Dân Đoàn chiến hữu Lâm Thao thực tập
thêm về di hành có mang nặng. Tôi thấy anh Lâm Thao bước đi không bình thường,
chậm hơn các anh em khác, gương mặt đổ đầy mồ hôi, mệt nhọc, nhưng anh vẫn kiên
nhẫn luyện tập. Chân anh Lâm Thao bị thương từ những ngày còn cuộc chiến Việt Nam .
Tuy chậm nhưng anh vẫn có khả năng di hành trong địa hình rừng núi.
Từ
những ngày được chọn đi học trong khóa kháng quản, tôi có nghe chiến hữu Chủ
Tịch MT đưa ra một so sánh lý thú đầy ấn tượng, về hình ảnh đi cứu nước của anh
em kháng chiến quân, với hành động anh hùng của tráng sĩ Kinh Kha giã từ Thái
Tử Đan ở nước Yên, qua sông Dịch Thủy diệt bạo chúa Tần Thủy Hoàng.
Chiến
hữu Chủ Tịch cho rằng lòng yêu nước cùng hành động dấn thân can đảm lên đường
của anh em kháng chiến quân đi diệt chế độ bạo quyền Hà Nội, còn quả cảm, xứng
mặt trượng phu, đáng ngợi khen hơn tráng sĩ Kinh Kha cuối thời Đông Chu Liệt
Quốc bên Tàu, cách đây hơn 2.000 năm...
2.-
Một vài nhận xét: Qua một số câu chuyện anh Phạm Hoàng Tùng kể
lại trong cuốn hồi ký sắp xuất bản và một số sự kiện khác, chúng ta có thể nhận
ra rằng sở dĩ Mặt Trận đã thất bại nặng trong cuộc đấu tranh quân sự vì các lý
do sau đây:
Lý
do thứ nhất:
Mặt Trận chưa thành lập được các
cơ sở hạ tầng ở trong nước để nắm vững tình hình và chuẩn bị cho việc đón nhận
lực lượng từ ngoại quốc xâm nhập, nhưng vì sự thúc bách của hải ngoại, nên đã
vội đem quân về. Hành động như thế cũng chẳng khác gì chùm hai chân nhảy vào
bóng tối. Chính quyền Kennedy cũng đã hành động như vậy khi đưa kháng chiến
quân Cuba đổ bộ vào Bay
of Pigs ngày 17.4.1961 và đã thất bại thê thảm. Mặt Trận không học được bài học
lịch sử đó.
Lý
do thứ hai:
Không giữ được bí mật quân sự.
Tuy những người lãnh đạo kháng chiến là những người có rất nhiều kinh nghiệm về
quân sự trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng khi tổ chức xâm nhập vào Việt Nam, họ
đã thông báo cho đối phương trước họ sẽ mở trận đánh, chiến thuật sẽ áp dụng,
quân số, nơi phát xuất cuộc hành quân, ngày giờ sẽ lên đường... nên thua là
chuyện đương nhiên.
Cộng
quân chỉ cần đưa hai trung đoàn thiện chiến qua đóng ở biên giới Việt – Lào để
đợi kháng chiến quân của Mặt Trận. Sau đó cho điệp viên tham gia kháng chiến
quân của Mặt Trận để lấy tin tức. Các diễn biến trong Khu Chiến mà anh Phạm
Hoàng Tùng vừa kể lại nói trên, địch đều biết. Ngày giờ kháng chiến quân lên
đường, các lộ trình mà kháng chiến quân sẽ đi qua... địch đều nắm vững, thua là
chuyện không thể tránh được.
Lý
do thứ ba: Mặt Trận thiếu một hậu cần vững mạnh ở đàng
sau nên dù có xâm nhập được, rồi cũng sẽ thất bại vì thiếu yểm trợ. Việt Cộng
chống nổi Pháp và Mỹ là nhờ có Trung Cộng, một hậu cần to lớn và vô tận, đứng
sát đàng sau lưng. Không có sự chiến thắng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc ở Trung
Hoa năm 1949 sẽ không bao giờ có Điện
Biên Phủ 1954 hay “Đại thắng mùa xuân” năm 1975.
Loạn
quân Tamil ở Sri Lanka chiến đấu trường kỳ được với chính quyền của người
Sinhalese từ 1983 đến nay là nhờ sự giúp đỡ của khối người Tamil Ấn Độ ở sát
bên.
Phi
Luật Tân không dẹp được Mặt trận Moro Islamic Liberation Front là vì mặt trận
này có hậu cần là khối Hồi Giáo ở Malaysia và Indonesia, v.v. Còn Mặt Trận khi
vào được trong nước, sẽ dựa vào hậu cần nào để có thể kéo dài cuộc chiến cho
đến thắng lợi? Người Việt hải ngoại không thể làm hậu cần được vì tài lực quá
yếu và ở quá xa.
Lý
do thứ tư: Sự thay đổi chính sách của Hoa Kỳ. Khi còn
đối đầu với CSVN, anh Hai ngầm yểm trợ người Việt hải ngoại quậy phá CSVN cả về
quân sự lẫn chính trị. Nhưng khi quyết định bắt tay với CSVN, anh Hai bảo:
“Chống lại quốc gia có quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ là tội hình sự đó. Chuyển
qua đấu tranh chính trị đi mấy cha nội!”
CHUYỂN QUA ĐẤU TRANH CHÍNH
TRỊ
Hết
đấu tranh quân sự với CSVN, Mặt Trận nghe lời anh Hai, chuyển qua đấu tranh
chính trị. Nhưng đấu tranh bằng cách nào?
Cách
thứ nhất: Được
Mỹ đưa về lãnh đạo quốc gia. Sự
thật lịch sử nếu được nói ra sẽ làm nhiều người đau buồn, nhưng nếu không nói
ra, nhiều người và tổ chức lại cứ tiếp tục đi theo đường cũ làm đất nước rối
tung, nên tốt hơn cả là nói ra: Nghiên cứu hoạt động của các đảng phái quốc gia
trong cuộc chiến Việt Nam từ 1947 đến 30.4.1975, chúng ta sẽ thấy đa số lãnh tụ
các đảng phái này chỉ lo đi vận động để được Pháp rồi Mỹ đưa lên cầm quyền, chứ
không hề có một kế hoạch xây dựng đất nước nào.
Chính
quyền nào cho ghế thì ủng hộ để bảo vệ ghế, chính quyền nào không cho ghế thì
chống phá, làm cho sụp đổ để được lên thay thế. Họ không có chính sách hay
đường lối gì. Đường lối của họ khi cầm quyền là đường lối mà Pháp hay Mỹ đã
vạch ra. Do đó, khi Pháp hay Mỹ thay đổi chính sách hay đường lối, họ không
biết xoay trở cách nào, cứ múa rối lung tung đưa đến mất nước.
Quan
sát hoạt động của Mặt Trận hay Đảng Việt Tân trong khoảng 15 năm trở lại đây, chúng tôi thấy Đảng này cũng
đang đi vào con đường nói trên. Đảng này không đưa ra được một kế hoạch hay
đường lối nào để xây dựng lực lượng quốc gia, mà chỉ cố gắng tạo ra “những
ảo ảnh” về thế lực của mình với ước mong được chính phủ Hoa Kỳ quan tâm
và đưa về lãnh đạo đất nước.
Không
thấy được mục tiêu mà Đảng Việt Tân đang nhắm, nhiều người đã thắc mắc: Tại
sao Đảng này cứ tìm cách đánh chiếm các tổ chức cộng đồng ở hải ngoại và “chôm
credit” của các tổ chức khác, gây ra những xáo trộn liên tục? Câu trả lời rất
đơn giản: Đảng này chỉ muốn tạo “ảo ảnh” về thế lực của mình ở hải ngoại để
được Hoa Kỳ lựa chọn!
Nhưng
Mỹ có những cơ quan nghiên cứu rất khoa học, họ biết ở hải ngoại có bao nhiêu
phần trăm ủng hộ Việt Tân và khả năng của các cán bộ Việt Tân như thế nào.
Người Mỹ không bao giờ nhìn vào những ảo ảnh. Vã lại, chuyện Mỹ đưa về cầm
quyền như ngày xưa không còn xẩy ra nữa, xin đừng ảo tưởng.
Cách
thứ hai: Chấp nhận “hòa
giải hòa hợp”
với Việt Cộng để được Việt Cộng
chia ghế. Nhiều người tin rằng sau khi đợi mãi mà không thấy Hoa Kỳ đả động gì
hết, các lãnh tụ Đảng Việt Tân quyết định quay về “hòa giải hòa hợp” với Việt
Cộng để mong được chia ghế. Nhưng chúng tôi đã nói nhiều lần: Việt Cộng không
bao giờ chịu “hòa giải hòa hợp” với Việt Tân hay bất cứ tổ chức đấu tranh nào
của người Việt hải ngoại.
Trong
hội nghị Genève 1954, Việt Minh chỉ nói chuyện với Pháp chứ không nói chuyện
với chính phủ quốc gia và coi chính phủ này như một bộ phận của Pháp. Do đó, dù
chính phủ Ngô Đình Diệm không chịu ký hiệp định Genève, hiệp định đó vẫn được
đem ra áp dụng, chính phủ Ngô Đình Diệm không thể cưỡng lại được.
Trong
hội nghi Paris , Hà Nội cũng không chịu nói
chuyện với Sài Gòn mà chỉ nói chuyện với Washington .
Hà Nội coi Sài Gòn ngang với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam . Mỹ cũng đồng ý như vậy và VNCH
vì bị lệ thuộc quá nhiều, cũng phải đi theo Mỹ, không còn cách nào khác.
Lúc
đó miền Nam có 17 triệu dân, có chính quyền với trên 1.200.000 quân có đầy đủ
vũ khí tối tân... mà Hà Nội còn xấc láo như vậy. Việt Tân lấy tư cách gì để
được Việt Cộng chấp nhận “hòa giải hòa hợp” và chia ghế trong chính quyền?
Chúng
tôi đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ
Chính Trị Đảng CSVN là một văn kiện chiêu hồi chứ không phải là chính
sách “hòa giải hòa hợp”.
Vậy
Việt Tân định quy phục chế độ
trong nước sao? Giả thiết Việt Tân có quy phục đi nữa, Việt Cộng cũng chẳng bao
giờ chia ghế trong chính quyền cho. May lắm, Việt Cộng cho một vài ghế “đại
biểu” trong quốc hội để làm bù nhìn đánh bóng cho chế độ mà thôi.
Cách
thứ ba: Thực hiện một cuộc đảo chánh lật đổ chế độ
cộng sản ở trong nước và thiết lập một chế độ dân chủ. Chắc chắn Đảng Việt Tân
không đủ khả năng để làm điều này. Vã lại, các cường quốc Tây phương cũng không
muốn như thế. Khi Fidel Castro lâm bệnh, rất nhiều người coi đây là cơ thực
hiện một cuộc cách mạng để lật đổ chế độ cộng sản Cuba .
Nhưng
bản tin ngày 7.8.2006 của đài VOA cho biết Ngoại Trưởng Condoleezza Rice đã
tuyên bố: “Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ cho
Cuba trong cuộc chuyển đổi sang dân chủ, nhưng không toan tính gây bất ổn trên
đảo quốc này vào lúc Chủ Tịch Fidel Castro đang đau yếu.”
Cách
thứ tư: Một mặt xây dựng cơ
sở hạ tầng để chờ cơ hội đứng ra góp phần xây dựng đất nước, cả về chính trị,
kinh tế lẫn giáo dục và văn hóa. Mặt khác, tiếp tục dùng “diễn biến hòa bình” để đưa tới những thay đổi dần trên đất nước,
chuyển hóa từ cộng sản sang dân chủ. Công việc này đòi hỏi một thời gian dài, có khi cả một hay hai thế hệ.
Các
chính khách miền Nam
nói chung, và các lãnh tụ Việt Tân nói riêng, đa số đã trên 60. Một số đã an
phận, nhưng một số vẫn còn muốn một “chiếc ghế” nào đó trong chính quyền, nên
rất nôn nóng và múa may lung tung, mặc dầu đó chỉ là ảo tưởng. Có “lãnh tụ” đã
nói thẳng với chúng tôi: “Mình đã đi vào cuối đời, không thể chờ được nữa!”
Chúng
ta khó mà tìm ra được một chính khách hay lãnh tụ của người Việt ở hải ngoại có
tâm đạo, muốn xây dựng cho thế hệ đang tới để thế hệ này giải phóng
và đưa đất nước đi lên. Đa số chỉ nghĩ đến mình và cái hư danh mà họ mong ước.
Đó là điều bất hạnh cho đất nước.
Tú Gàn
Bài này cá nhân Phạm
Hoàng Tùng chúng tôi trích từ diễn đàn liên mạng để bạn đọc blog có cái nhìn rõ
thêm về Việt Tân.
ĐẢNG
VIỆT TÂN:
HƯ THỰC CỦA VẤN ĐỀ
HƯ THỰC CỦA VẤN ĐỀ
Ls.
Hoàng Duy Hùng
ĐẢNG VIỆT TÂN:
HƯ THỰC CỦA VẤN ĐỀ
HƯ THỰC CỦA VẤN ĐỀ
Ngày 19 tháng 9 năm
2004, tại Berlin nước Đức, Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, (viết tắt là Việt
Tân) chính thức ra mắt với đồng hương.
Những nhân sự đầu
não của Việt Tân không phải là những người xa lạ vì tất cả những nhân sự này
đều là thành phần lãnh đạo của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam
(gọi tắt là Mặt Trận) của cố Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh hay của Liên Minh Việt
Nam Tự Do như: Ông Lý Thái Hùng (Tổng Bí Thư) và phu nhân của ông ấy là bà Trần
Diệu Chân (San Jose), Bs. Trần Đức Tường (Pháp), ông Nguyễn Ngọc Đức (Pháp),
Bs. Nguyễn Trọng Việt (Nam Cali), v.v.
Nhìn vào thành phần
nhân sự, người ta thấy rõ đây là sự thoái thai từ Mặt Trận sang đến Việt Tân.
Sự ra đời của Việt
Tân cũng chính là điểm mốc để Mặt Trận được khai tử, để Mặt Trận "chạy
làng" những "món nợ" tinh thần và vật chất mà Mặt Trận đã vay
mượn với đồng hương.
Những món nợ đó như
sau:
1/ Tuyên bố có 10
ngàn quân vũ trang ở biên thùy. Bây giờ 10 ngàn quân đó ở đâu, đang làm gì thì
khó mà trả lời! Trước đây dùng vũ trang, bây giờ thay đổi thời thế, vay mượn tư
tưởng và sách lược của Nhóm Thông Luận, muốn "hòa hợp hòa giải" với
Cộng Sản nên, theo bà Trần Diệu Chân, là đấu tranh "tổng nổi dậy Hòa
Bình".
Nếu còn thây ma
"Mặt Trận" chình ình ra đó, khó có thể làm ăn khấm khá, nên đành phải
ỡm ờ đánh lận con đen, thay đổi bình mới nhưng rượu cũ, để những ai chưa biết
hoặc không có kinh nghiệm, bị sa cơ mắc bẩy.
2/ Mặt Trận đã phạm
quá nhiều tội ác, buôn bán thuốc phiện, tình nghi giết người bịt miệng (cái
chết của các ký giả Tú Rua, Đạm Phong v.v.), trốn thuế, v.v., đã từng bị chính
phủ Hoa Kỳ truy tố 39 tội danh, vết nhơ còn đó, nên cái thây ma Mặt Trận càng
lúc càng sình thối, không ngửi nổi, đến độ những cán bộ của Mặt Trận ra ngoài
sinh hoạt không dám nhân danh là "Mặt Trận" nữa.
Thí Dụ, ông Xứ Bộ
Trưởng Na Uy của Mặt Trận là ông Nguyễn Đức Thọ đã từng nói: "Không dám
mang danh xưng Mặt Trận ra mà tổ chức tại vì quần chúng dị ứng." Có người
hỏi lại: "Biết quần chúng dị ứng thế mà vẫn theo để làm gì? Biết bị mất
chính nghĩa mà vẫn bám chặt là làm sao?" Ông Xứ Bộ Trưởng này im thin
thít, quay đầu bỏ đi.
3/ Mặt Trận từng
quyên rất nhiều tiền, nhiều triệu Mỹ Kim của đồng hương. Số tiền này không được
kế toán rõ ràng. Một phần của số tiền này Mặt Trận làm kinh tài, mở các tiệm
phở phở Hòa, Phở Công Lý), mua tàu đánh cá, bề ngoài thì chống Cộng nhưng bề
trong thì đi đêm với Cộng Sản làm trung tâm chuyển tiền cho Việt Cộng, v.v.,
nên bay giờ khai tử Mặt Trận thì phủi tay khỏi phải trả lời với đồng hương
những vấn đề này.
Tiền lời bằng kinh
tài và tiền chia huê hồng bí mật làm tay sai cho Cộng Sản, Mặt Trận trả lương
cho các cán bộ nên dầu biết là Mặt Trận mất chính nghĩa, các cán bộ còn lại vẫn
bám chặt để còn "ăn". Nhưng, miếng ăn là miếng nhục và miếng ăn này
là miếng ăn bán nước đáng bị lịch sử lên án nặng nề.
4/ Dối gạt đồng
hương về số phận của cố Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh. Năm 1987, trong chiến dịch
Đông Tiến I của Mặt Trận, Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đã tử trận trên đường xâm nhập
về nước *.
Báo chí ngoại quốc loan tin này, Mặt Trận lập tức phủ nhận và còn nói đây là
tin vịt của Việt Cộng ngõ hầu làm hoang mang niềm tin vào lãnh đạo của quần
chúng.
Mãi tới năm 1999,
những cán bộ cao cấp như ông Phan Nam, Hoàng Thế Dân, Đỗ Hoàng Điềm, v.v., còn
mạnh miệng tuyên bố trên các đài phát thanh đó là Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đang
ở trong quốc nội lãnh đạo cuộc kháng chiến, nay mai sẽ ra chúc Tết đồng hương.
Tờ Kháng Chiến liên
tục đăng những bài chúc Tết của "Chủ Tịch" Hoàng Cơ Minh ở trong
nước, đăng những trận đụng độ quân sự với quân của Việt Cộng, nay đánh đồn La
Ngà, mốt giật sấp cầu sông Dinh, kia phá đập Trị An, nọ vây đồn Gia Kiệm hoặc
phục kích đoàn công voa của quân đội CSVN trên tuyến đường đi Bảo Lộc giết chết
hàng trăm bộ đội Cộng quân!!!
Trước sự láo lếu
khinh thường đồng hương này của Mặt Trận, nhiều người, trong đó có cá nhân tôi,
đã lên tiếng vạch trần tội ác này của họ, Diễn Đàn Công Luận đã thành hình, Mặt
Trận trốn chui trốn nhủi không đến tham dự, và rồi mấy năm sau, vì áp lực của
quần chúng, Mặt Trận muối mặt làm lễ truy điệu cho cố Phó Đề Đốc Hoàng Cơ
Minh!!
Kháng Chiến Quân Việt Nam tập họp
trong rừng núi khu chiến
khi
tham dự buổi Lễ
Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị của Mặt Trận
ngày
8/3/1982.
Ảnh nguồn: Hồi Ký Kháng Chiến
Hành Trình Người Đi Cứu Nước.
Cá nhân Phạm Hoàng Tùng chúng tôi
đưa hình vào bài viết này để minh họa sự kiện.
5/ Phủi tay trước
cái chết của các chiến hữu trong các đợt Đông Tiến, đặc biệt là Đông Tiến II và
III, cũng như phủi tay trước những hy sinh to lớn của những chiến hữu đã vì sự
gian xảo của Mặt Trận mà phải ở tù dưới chế độ Cộng Sản, Mặt Trận đã không thăm
nuôi tiếp tế cho họ. Ai cũng biết Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh hy sinh trong đợt
Đông Tiến I năm 1987**, nhưng Mặt Trận nhân danh Phó Đề Đốc Hoàng Cơ
Minh còn sống, mãi tới năm 1991, vẫn tổ chức Đông Tiến II và Đông Tiến III*** để
Cộng Sản giết hoặc bắt giam những chiến hữu này.
Ai đã có quyết định vô
lương tâm như vậy nếu kẻ ấy không phải là một tay mất tính người
hoặc là một tay tình báo cao cấp của
Cộng Sản đã xâm nhập vào Mặt Trận, nắm lấy sinh tử phù của Mặt Trận, lèo
lái Mặt Trận theo kế hoạch của Cộng Sản?
Nếu muốn biết những
kẻ ấy là ai, xin hãy đọc bài của Người Thứ Chín viết về Lý Thái Hùng tức Bùi
Minh Đoàn và ông Nguyễn Xuân Nghĩa từng mang bí danh là Đồng Sơn, cháu của cựu
Tổng Bí Thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh.
6/ Chuyên cướp công
các cá nhân và các hội đoàn trong các buổi tổ chức biểu tình, kiến nghị thư
v.v., gây làn sóng phẫn nộ và bất mãn nơi quần chúng nên Mặt Trận đổi áo thành
Việt Tân để dễ bề lừa gạt và thao túng hơn.
7/ Mặt Trận đã từng
thậm thụt len lén có những hành vi tiếp tay cho Cộng Sản để nhuộm đỏ hải ngoại
như phân phối lồng đèn trung thu nón cối ở Houston in hình các cháu thiếu nhi
đi theo bộ đội nón cối dưới trăng đỏ có ghi hàng chữ "Vì các cháu thiếu
nhi toàn dân ta kháng chiến" mà sau này Mặt Trận dày mặt tuyên bố đây là
câu nói của "Hoàng Cơ Minh" chớ không phải của "Hồ Chí
Minh".
Bị phản đối quá, Mặt
Trận lại trâng tráo nói đây là khuyết điểm. 2 năm sau, khuyết điểm được lập lại
ở Paris, Mặt Trận phân phối nón trung thu cờ đỏ sao vàng của Việt Cộng và rồi
lại tuyên bố đây đó là một sơ sót!! Trong các cuộc biểu tình, Mặt Trận thả bồ
câu trắng kêu gọi hòa bình. Ngày 30/4 là ngày tang thương thì Mặt Trận vận động
tháng Tư Xanh hay Ngày Tự Do - Dân Chủ!!
Giỗ Tổ Hùng Vương
trong tháng Tư Đen, chưa nắm chính quyền mà Mặt Trận đã lập Ngày Quốc Khánh.
Chưa quốc gia nào lấy ngày giỗ ông bà làm "quốc khánh" cả, và văn hóa
Việt Nam tối kỵ chuyện này, nhưng Mặt Trận tảng lờ coi như không có chuyện gì
hết. Khai tử Mặt Trận để Việt Tân chính thức ra mặt chính sách hòa hợp hòa giải
với Cộng Sản để khỏi mang tiếng là lén lút.
8/ Trước đây, Mặt
Trận, qua các tổ chức ngoại vi như Liên Minh Việt Nam Tự Do, Phong Trào Phan
Bội Châu hoặc Hội Chuyên Gia, xâm nhập lũng đoạn các cộng đồng, tìm bằng mọi
cách nắm lấy cộng đồng để làm cái thế kèo nài chia ghế với Cộng Sản.
Ai không theo hoặc
nằm trong vòng kiểm soát của Mặt Trận, Mặt Trận mở chiến dịch bôi lọ, vu khống,
chụp mũ, hăm dọa, v.v. Địa phương nào mà Mặt Trận yếu thế, Mặt Trận xúi bẩy
giật giây để tách ra làm 2 hoặc làm 3 cộng đồng trong một thành phố như đã xảy
ra ở Houston, Atlanta, Nam California, Bắc California, v.v.
Quần chúng phẫn nộ
tột đỉnh nên cởi quăng cái áo Mặt Trận thì chạy được cái tội này, mặc cái áo
Việt Tân vào và những tổ chức ngoại vi mới như Mạng Lưới Tuổi Trẻ Lên Đường,
những kẻ không theo dõi thời cuộc, sẽ bị mắc mưu, dùng danh xưng Việt Tân và
các hội đoàn ngoại vi này, thống hợp các cộng đồng lại để làm cái thế nói
chuyện với Cộng Sản theo chính sách thua keo này bày keo khác.
Năm 1999, tôi lên tiếng
về cái chết của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và những tội ác của Mặt Trận, tôi có
in quyển sách "Lột Mặt Nạ Mặt Trận Hậu Hoàng Cơ Minh" trong đó tôi có
in lại làm bằng chứng một tài liệu của Liên Minh Việt Nam Tự Do, trong tài liệu
này Liên Minh Việt Nam Tự Do ca ngợi ĐCSVN là một "thành phần" ưu tú
của dân tộc trong tiến trình dân chủ, và một tài liệu của Liên Minh Việt Nam Tự
Do xác nhận về Đảng Việt Tân như sau: "Việt Tân xác nhận tính toàn dân của
cuộc cách mạng tháng 8 - 1945 và tính tự chủ của chính quyền được hình thành
váo tháng 9 -1945."
Ai cũng biết ngày 2
tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh áp đặt một thể chế chính trị vô nhân nhất trên
toàn cõi nước Việt, đây là ngày tang thương cho cả nước, nhưng, Đảng Việt Tân
xác nhận "tính tự chủ của chính quyền" này thì đủ hiểu rõ ý định của
họ công nhận thể chế Cộng Sản rồi, chỉ còn chia ghế chia quyền nữa mà thôi, TỨC
LÀ, VÔ TÌNH HAY CỐ Ý, ĐẢNG VIỆT TÂN ĐANG ĐÓNG VAI TRÒ CÁNH TAY
NỐI DÀI CỦA ĐCSVN MỘT CÁCH TINH VI VÀ KHÉO LÉO MÀ THÔI.
Khi ra mắt Đảng Việt
Tân, các lãnh đạo của đảng này cho biết Việt Tân đã được thành lập 22 năm rồi,
ở trong nước và ở hải ngoại. Một đảng đấu tranh 22 năm sau mới ra mắt đồng bào,
quý vị có tin được hay không? Cũng chiêu bài bịp giống y như Mặt Trận ra mắt 10
ngàn quân vậy!!! 22 năm thành lập Việt Tân tức là 22 năm của Mặt Trận, bây giờ
chỉ đổi áo mà thôi để cho hợp với chính sách đón gió trở cờ của Mặt Trận.
Ông Nguyễn Ngọc Đức,
đại diện cho Việt Tân, đọc Chương Trình Hành Động gồm 11 điểm. Chương Trình
Hành Động này chẳng có chút gì gọi là hành động cả, chỉ là nồi xúp tả pín lù
mượn sách lược và tư tưởng hòa hợp hòa giải của Thông Luận nhưng dở hơn nhiều,
cộng thêm ba cái dữ kiện lỉnh kỉnh góp nhặt từ một vài tổ chức khác và một vài
tin tức thời sự như Việt Cộng bán đất bán biển cho Trung Cộng.
Đọc qua, thấy rõ
Việt Tân không có lý thuyết gì cả nên "lý thuyết gia" Nguyễn Ngọc Đức
rõ ràng đang làm một việc cha ông ta hay ví von là "gà què ăn quẩn cối
xay." Nhận diện được điểm này nên trên diễn đàn mạng lưới, ông Quán Thế Sự
đã đề nghị Mặt Trận - Việt Tân làm "phó" cho chú phỉnh Nguyễn Hữu
Chánh vì dầu sao đi nữa chú phỉnh cũng có "lý thuyết gia" Cao Thế
Dung soạn bài nên đọc cũng đỡ hơn nhiều.
Ở điểm 3 của Chương Trình Hành Động, ông Nguyễn Ngọc Đức la toáng lên là Việt Tân đấu tranh không để nắm chính quyền và sẵn sàng đặt dưới sự lãnh đạo của các đoàn thể khác. Thôi đi mấy ông Việt Tân ơi, đừng giả bộ chơi chiêu "tôi đang dọn cổ cho mấy ông ăn đây" để câu khách. Quá trình hơn 2 thập niên lường gạt và tham quyền cố vị của mấy ông không thua gì Cộng Sản là bằng chứng hùng hồn về mấy ông, nên, "đừng nghe những gì Việt Tân nói, hãy nhìn kỹ những gì Việt Tân làm."
Đây, phương hướng
thứ mười của Việt Tân mà ông Nguyễn Ngọc Đức đọc sang sảng là "soi sáng sự
thật lịch sử cận đại .." nhưng mà Mặt Trận và Việt Tân không dám soi sáng
về sự thật cái chết của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, về số tiền nhiều triệu Mỹ Kim đã thu gom của đồng bào, về lý do nào
biết Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đã chết mà vẫn đẩy chiến dịch Đông Tiến I và II
để cho Cộng Sản bắt giết chết và giam nhiều người Quốc Gia, về cái chết của ký
giả Đạm Phong, Tú Rua, v.v.!!!!!
Khi nào Việt Tân -
Mặt Trận làm sáng tỏ điều này thì mấy ông mới kêu gọi làm sáng tỏ lịch sử cận
đại để "xóa bỏ những ngộ nhận của quá khứ giữa các thành phần dân tộc, để
tất cả cùng hướng về tương lai Việt Nam và đến với nhau bằng tình nghĩa đồng
bào, bằng ý chí xây dựng đất nước." (sic!!)
Để thay cho lời kết,
tôi xin mượn ý kiến của hai người trên diễn đàn điện tử, một của ông Quán Thế
Sự và một của ông Đỗ Hoàng Gia:
Ông Quán Thế Sự:
"Thằng em út Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng không đưa ra được cái gì
mới, từ cương lĩnh đến chương trình hành động, chỉ nói toàn giọng điệu hòa giải
hòa hợp, cóp nhặt mỗi nơi một ít và nhai đi nhai lại thứ đồ thiên hạ đã nha ra
từ mấy đời, nhưng được cái là gương mặt nó không xấu xí, bẩn thỉu và có tiền án
như thằng anh Mặt Trận."
Trong bài nhận định
Việt Tân: Canh Bạc Bịp, ông Đỗ Hoàng Gia viết: "Hôm nay, 19/9/2004, các
tay đánh bài bịp bằng lòng yêu nước của đồng bào tỵ nạn, mò đến sòng bạc Berlin , tung một canh
bạc bịp mới.
Gọi là canh tân,
thực ra, một trò siêu lừa mới, dựng 'con bài tẩy canh tân', để đón gió với cánh
Việt Cộng xé rào ... Đối với bọn lưu manh chính trị trên, thì những cụm từ
thiêng liêng như tổ quốc, dân tộc, nhân quyền, nhân phẩm, dân chủ .. chỉ là
những con bài Đầm, Bồi, Già, Xì, Bạt, Cẩu.. Bọn đánh bài bịp canh tân coi tổ
quốc, dân tộc như một canh xì phé.
Nói chung, chúng vô
lương và vô luân ... Tôi lại phải thở dài nữa cho đất nước mình. Tôi đã bật
khóc. Khóc cho đất nước. Khóc cho chính cái thằng tôi. Khóc cho con cái tôi.
Hỡi tiền nhân, lịch sử đất nước mà các ngài để lại có tệ lắm đâu mà sản sinh
cho thế hệ chúng con ra nhiều đứa đầu trộm đuôi cướp đến thế. Hỡi tiền nhân,
khốn nạn chúng con nữa rồi."
Đúng vậy ông Đỗ
Hoàng Gia ơi, vì:
Việt Tân, Việt Cộng,
Việt gian,
Ba Việt cộng lại tan hoang nước nhà.
Ba Việt cộng lại tan hoang nước nhà.
Ls. Hoàng Duy Hùng
*,**,***: Mặt Trận từ tháng 7/1985 đã mở Chiến Dịch
Đông Tiến I do Tướng Dương Văn Tư và chiến hữu Huỳnh Trọng Hà chỉ huy.
Tháng 7/1986 MT mở
Chiến Dịch Đông Tiến II do đích thân Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh chỉ huy, tuy nhiên
không vượt sông Mekong được nên trở lại đất
Thái tạm trú quân. Một năm sau đó, đội hình Chiến Dịch Đông Tiến II lại khởi
động vào tháng 7/1987.
Tháng 8/1989, MT cho
tiến hành Chiến Dịch Đông Tiến III do chiến hữu Đào Bá Kế chỉ huy.
Chú thích trên đây của
Phạm Hoàng Tùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét