Bất Bạo Động Đồng Nghĩa Với Độc Tài Cộng Sản Muôn Năm! Người Việt Phải Hành Động Để Tự Cứu Mình! Đừng Trông Chờ Bất Kỳ Ai. Blog hoạt động từ ngày 28 tháng 2 năm 2.012

Người Việt Hải Ngoại Khởi Xướng Đấu Tranh & Đại Cuộc Bất Thành Vì Sự Bất Chính & Bài Học Lịch Sử Kháng Chiến Phục Quốc







Chí trai ôm ấp hoài bảo lớn
Vì non sông nước Việt
Yêu quý ngàn đời!!!
Phạm Hoàng Tùng năm 1993
tại Phnom Penh (Nam Vang)
Cam Bốt (Kampuchea).



Hùng Ca Sử Việt
Thề Không Phản Bội Quê Hương.
Nguyệt Ánh và Việt Dũng trình bày.
Nhạc phẩm trước thời điểm tháng Tư Đen/1975
của Cục Chính Huấn VNCH.
Nguồn: youtube.



Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại
 Nỗ Lực Kiến Tạo Công Cuộc Đấu Tranh  
Sau Ngày 30/4/1975 &
Đại Cuộc Thất Bại Vì Nạn Gia Đình Trị
 Và Chiếm Dụng Tiền Bạc Bất Hợp Pháp.

Bức thơ bên dưới đây do cá nhân chúng tôi trích từ Phần Tài Liệu trong Hồi Ký Kháng Chiến Hành Trình Người Đi Cứu Nước với mục đích để bạn đọc trong nước, đặc biệt là giới trẻ biết được giai đoạn đấu tranh hào hùng - dũng khí của Người Việt Hải Ngoại vì một quốc gia Việt Nam Tự Do.

Một công dân bình thường đã biết sống lương thiện thì một lãnh đạo lại càng phải biết sống nhân đức.

Phạm Hoàng Tùng.


Tổ Chức PHỤC HƯNG VIỆT NAM
___________________________________________________________
P.O Box 91601, Pasadena, CA 91109, USA
Website http://www.phvn.org  -  Email: phvn@phvn.org

Ngày 14 tháng 1 năm 2005

THƯ NGỎ

Kính gởi ông Phạm Văn Liễu
Tác giả cuốn "Trả Ta Sông Núi - Hồi ký tập 3"
1217 Fox Sparrow Trail
Cedar Park, TX 78613

Kính ông,

Chúng tôi đọc được Hồi ký 3 Trả Ta Sông Núi của ông vừa phát hành. Trong hồi ký nói trên ông có đề cập đến một số vấn đề liên quan đến sự hợp tác của Tổ Chức Phục Hưng Việt Nam (TC/PHVN) với Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (MT) không được chính xác.

Cuốn sách của ông liên quan đến sự hình thành và những vấn đề sau đó của MT là một tài liệu lịch sử cho những ai nghiên cứu lịch sử đấu tranh của người Việt hải ngoại trong công cuộc xây dựng dân chủ và vãn hồi tự do cho dân tộc.

Và vì là một tài liệu lịch sử nên chúng tôi viết cho ông Thư ngỏ này, nêu ra những sự thật để lịch sử có được những dữ kiện chính xác, dành cho những người Việt quan tâm, nhất là các sử gia, và không có mục đích tranh luận gì với ông, cũng như không phải để chứng minh ông Hoàng Cơ Minh sai hay đúng ở chỗ nào.

Mỗi hoàn cảnh có thể cho mỗi người trong chúng ta có một quyết định và phán đoán khác nhau. Dù sao ông Hoàng Cơ Minh cũng đã hy sinh cho đại cuộc, và điều đó nói lên tấm lòng vì nước vì dân của ông ta. Chúng tôi cảm phục sự hy sinh đó.

Thưa ông, cuốn Hồi ký dày 544 trang của ông chứa đựng nhiều điều mà trong phạm vi một Thư ngỏ chúng tôi không thể trích dẫn từng đoạn từng câu để đối chiếu với sự thật. Nhưng bức tranh của sự việc như sau.
    
Sự thành hình Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam:

Sự hình thành MT mà sau này thường được cộng đồng hải ngoại gọi là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh được ghi nhận trong tài liệu lưu trữ của TC/PHVN như sau:

MT hình thành do quyết định của 3 tổ chức: Người Việt Tự Do tại Nhật Bản, TC/PHVN và Lực Lượng Quân Dân Hải Ngoại (LL/QDHN) vào một ngày tháng 6 năm 1981 tại phi trường San Francisco khi ba đại diện của ba tổ chức nói trên lên đường đi Bangkok để gặp một cựu tướng lãnh của Thái Lan.

Công tác này có được do sáng kiến của TC/NVTD. TC/NVTD là một tổ chức gồm những sinh viên từ miền Nam Việt Nam du học Nhật Bản. Năm 1975 khi miền Nam Việt Nam sụp đổ những sinh viên trẻ này thành lập TC/NVTD không chấp nhận sự quản lý của tòa đại sứ Hà Nội. Bốn thành viên sáng lập TC/NVTD gồm các ông Ngô Chí Dũng, Đỗ Thông Minh, Phạm Thanh Linh và Huỳnh Lương Thiện.

Ông Phạm Thanh Linh qua nhiều chuyến công tác giúp người tị nạn tại các trại tị nạn Thái Lan đã thiết lập được quan hệ với chính quyền Thái Lan qua ông Nguyễn Chí Trung, một người Việt định cư ở Thái Lan và có nhiều quan hệ với chính quyền Thái Lan.

Ông Nguyễn Chí Trung biết Thái Lan có nhu cầu giúp đỡ người Việt chống Cộng (thời gian đó Thái Lan rất lo ngại cho biên giới Thái Lào có thể bị các đơn vị cộng sản Việt Nam thâm nhập) và đã giới thiệu TC/NVTD liên lạc với Thái lan qua tướng hồi hưu Sutsai, lúc đó đang giữ chức vụ Bộ trưởng phủ Thủ tướng Thái Lan.

Thời điểm đó là vào đầu năm 1981. Lúc đó TC/PHVN đã được thành lập (tháng 12/1978) và làm việc chặt chẽ với TC/NVTD vì trong thời gian tị nạn tại Nhật Bản (từ tháng 3/77 cho đến 10/77) hai cựu dân biểu (VNCH) Trần Văn Sơn và Trần Văn Thung (hai trong 11 thành viên sáng lập TC/PHVN) đã được TC/NVTD giúp đỡ mọi mặt.

TC/NVTD thấy cần phối hợp các đoàn thể hải ngoại cho công tác quan trọng này nên đã liên lạc với ông Trần Văn Sơn lúc đó là chủ tịch TC/PHVN yêu cầu hợp tác. TC/NVTD cho biết người Thái muốn có một cựu tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa trong phái đoàn và ủy thác cho TC/PHVN kiếm người.

Thoạt tiên TC/PHVN mời cựu đại tá Lê Khắc Lý. Đại tá Lý đã đồng ý tham dự, nhưng vài tháng sau cho biết vì vấn đề gia đình không thể tham dự vào phái đoàn được. TC/PHVN tham khảo ý kiến với TC/NVTD và đồng ý mời Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh tham dự phái đoàn. Đại tá Lý hay Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đều được mời với tính cách cá nhân.

Ông Hoàng Cơ Minh sốt sắng nhận lời và cho biết ông ta đang là một thành viên của Lực lượng Quân Dân Hải Ngoại (LL/QDHN) do trung tá Lục Phương Ninh làm chủ tịch và yêu cầu TC/PHVN không thông báo gì về công tác này với ông Lục Phương Ninh. Ông Hoàng Cơ Minh nói ông có nhiệm vụ thông báo nội bộ.

Đại diện của ba tổ chức đã đồng ý thành lập một phái đoàn 3 người gồm, ông Trần Văn Sơn (TC/PHVN- trưởng phái đoàn), ông Đỗ Thông Minh (TC/NVTD) và ông Hoàng Cơ Minh (LL/QDHN) để đi Thái Lan. Ngày đi phải hoãn nhiều lần chờ ông Hoàng Cơ Minh xin Re-entry Permit (lúc đó ông Hoàng Cơ Minh chưa có thông hành Hoa Kỳ).

Vào một ngày tháng 6 năm 1981, phái đoàn rời phi trường San Francisco đáp máy bay của hãng Singapore Airlines đi Bangkok. Ông Đỗ Thông Minh từ Nhật bay qua cùng đi. Ra tiễn tại phi trường có một mình ông Huỳnh Lương Thiện thuộc TC/NVTD.

Trong khi chờ đợi tại phi trường ông Hoàng Cơ Minh đưa ý kiến nên lấy một cái tên chung để ba người cùng đại diện (chứ chẳng lẽ - theo lời ông Hoàng Cơ Minh- chúng ta ba người đại diện cho ba tổ chức). Đến vấn đề chọn tên bàn qua bàn lại sau cùng ba vị đồng ý lấy tên tạm là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (MT) do ông Hoàng Cơ Minh đề nghị. Chúng tôi đồng ý. Đối với TC/PHVN và TC/NVTD thì đây là một danh xưng hoàn toàn mới mẻ nẩy sinh do nhu cầu công tác.

TC/PHVN đã đề nghị một phương pháp làm việc là nếu có vấn đề gì cần giải quyết thì lấy ý kiến đa số. Trưởng phái đoàn không có ưu tiên. Ba người đại diện ba tổ chức đồng ý nguyên tắc làm việc này.

Chuyến công tác Thái Lan thành công tốt đẹp. Người Thái đồng ý để MT đưa người vào Thái Lan. Họ đề nghị việc đưa người nên tiến hành từ từ từng đợt, con số đầu tiên là 30 người. Và trước khi nhập cảnh Thái Lan cần thông báo danh sách 10 ngày trước.

Từ Thái Lan phái đoàn qua Tokyo và cùng với nhiều thành viên khác của TC/NVTD (gồm ông Ngô Chí Dũng, Huỳnh Lương Thiện, Phạm Thành Linh, Vũ Đăng Khuê) thảo luận phương thức làm việc và đã ghi nhận trên một văn bản.

Nội dung bản văn đồng ý duy trì tên MT như là một thực thể chính trị do ba tổ chức TC/PHVN, TC/NVTD và LL/QDHN thành hình để tiến hành cục đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ và tự do.

MT tạm thời được lãnh đạo bởi một Hội Đồng Chỉ Đạo (HĐCĐ) gồm 6 ủy viên, mỗi tổ chức chỉ định 2 ủy viên. HĐCĐ sẽ qua Thái Lan để làm việc. Cơ cấu của MT gồm Tổng vụ Quốc nội và Tổng vụ Hải ngoại. Tổng vụ Quốc nội có nhiệm vụ lập khu chiến. Tổng vụ Hải ngoại có nhiệm vụ huy động sự yểm trợ của cộng đồng hải ngoại.

Do nhu cầu quân sự, ông Trần Văn Sơn, đại diện TC/PHVN, đề nghị cử ông Hoàng Cơ Minh làm chủ tịch HĐCĐ, và TC/NVTD đồng ý. HĐCĐ sẽ làm việc theo nguyên tắc thảo luận và lấy ý kiến đa số, ủy viên HĐCĐ mỗi người một phiếu. Buổi họp cũng đồng ý sẽ không công bố bất cứ hoạt động nào của MT cho đến khi HĐCĐ ra mắt tại khu chiến. HĐCĐ sẽ được thành hình sau, chờ đợi sự bổ nhiệm của mỗi tổ chức và sẽ là cái nhân của Tổng vụ Quốc nội.

Vấn đề phải giải quyết ngay là Tổng vụ Hải ngoại. Trên đường về khi dừng chân tại Hồng Kông (khách sạn Miramar) phái đoàn họp bàn tìm người giữ chức vụ Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải ngoại. Có hai nhân vật được nêu ra. Cụ Phạm Ngọc Lũy chủ tịch hội Trường Xuân, một nhân vật khả kính trong cộng đồng người Việt hải ngoại, và cựu đại tá Phạm Văn Liễu. Sau khi cân nhắc phái đoàn đồng ý chọn đại tá Liễu, một người cứng rắn hơn, theo đề nghị của ông Hoàng Cơ Minh.

Phái đoàn cũng đồng ý TC/NVTD chọn Tổng vụ phó (TC/NVTD chỉ định ông Huỳnh Lương Thiện, nguyên ủy viên trung ương của TC/NVTD) và TC/PHVN chọn Tổng thư ký (TC/PHVN chỉ định ông Ngô Đức Diễm, nguyên ủy viên trung ương của TC/PHVN). Trở về Hoa Kỳ ông Hoàng Cơ Minh đưa ông đến thăm ông Trần Văn Sơn, chủ tịch TC/PHVN, và - theo lời của ông Hoàng Cơ Minh - để chính thức hóa chức Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải ngoại của ông. TC/PHVN được biết ông từ lúc đó.


Ông Trần Văn Sơn (trái) và Hoàng Cơ Minh (phải)
(cùng Đỗ Thông Minh)
trong chuyến đi Thái đầu tiên, thời gian 15-21/6/1981,
đang nghiên cứu bản đồ đặt khu chiến.
Ảnh nguồn: Hồi Ký Kháng Chiến
Hành Trình Người Đi Cứu Nước
của Phạm Hoàng Tùng.
Cá nhân PHT chúng tôi đưa hình vào bức thơ này
 để minh họa sự kiện.


Công tác Thái Lan:

Để chuẩn bị lên đường mỗi tổ chức cần bổ nhiệm hai ủy viên Hội đồng Chỉ đạo. LL/QDHN bổ nhiệm ông Hoàng Cơ Minh và trung tá Lê Hồng. TC/NVTD bổ nhiệm hai ông Ngô Chí Dũng và Phạm Thanh Linh, TC/PHVN bổ nhiệm ông Trần Văn Sơn và ông Đỗ Hùng. TC/PHVN làm trung gian liên lạc và phối hợp hoạt động giữa ba tổ chức.

Về nhân sự công tác Thái Lan LL/QDHN chuẩn bị sớm nhất, và với sự đồng ý của HĐCĐ, anh em LL/QDHN sẽ lên đường trước để chuẩn bị cơ sở vật chất. TC/PHVN và TC/NVTD sẽ lên đường sau.

Tháng 8 năm 1981 phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh cùng trung tá Hồng dẫn một số chừng 5 thành viên khác lên đường đi Thái Lan. Vì lên đường không kịp thông báo trước nên Thái Lan từ chối không nhận, các anh em thuộc LL/QDHN phải bay sang tạm trú tại Tokyo chờ đợi can thiệp.

Trong thời gian ở Tokyo ông Hoàng Cơ Minh nhiều lần điện thoại về yêu cầu TC/PHVN hoãn lên đường chờ cho đoàn của ông sang Thái Lan đã.

Nhờ sự can thiệp của ông Nguyễn Chí Trung bên cạnh chính phủ Thái Lan, cuối tháng 8 ông Hoàng Cơ Minh và anh em LL/QDHN rời Tokyo đi Thái Lan. Hai tuần sau ông Trần Văn Sơn và ông Đỗ Hùng cũng đến Bangkok.

Có một số công việc phải làm và một số vấn đề phải giải quyết, và cần thảo luận. Mỗi lần TC/PHVN đề nghị giải quyết bằng cách họp HĐCĐ (lúc đó có 4 người hiện diện) ông Hoàng Cơ Minh đều gạt đi cho rằng chưa có đại diện của TC/NVTD. Mỗi việc ông chỉ tham khảo ý kiến hình thức với ông Trần Văn Sơn rồi lấy quyết định. TC/PHVN có cảm tưởng ông Hoàng Cơ Minh không xem ông Lê Hồng và ông Đỗ Hùng có tư cách ủy viên HĐCĐ ngang hàng với ông.

Tháng 9 năm 1981 do sự sắp xếp của Thái Lan, HĐCĐ cùng với số anh em LL/QDHN hiện diện đi thăm nơi sẽ làm khu chiến, cách thủ đô Bangkok 570 km nằm trên biên giới Thái-Lào. Bên kia biên giới là thành phố Pakse của Lào. Tại chỗ phái đoàn đã gặp một số đơn vị người Lào (Lào quốc gia, từ Lào bỏ chạy sang Thái Lan sau khi Pathet Lào chiếm Lào năm 1975) được người Thái cho đóng rải rác dọc biên giới Thái-Lào để báo động các xâm nhập của cộng sản Việt Nam.

Trở về Bangkok, anh Phạm Thanh Linh thuộc TC/NVTD vừa sang. TC/PHVN đề nghị phân định trách nhiệm của mỗi ủy viên HĐCĐ, mặt quân sự, mặt chính trị, mặt ngoại giao, mặt tiếp vận và làm việc theo nguyên tắc đã đồng ý tại Tokyo.

Nhưng ông Hoàng Cơ Minh cho rằng chưa cần phân nhiệm vì chưa có công việc gì quan trọng, và tình trạng ở khu chiến không thích hợp với lề lối sinh hoạt dân chủ (nghĩa là bàn thảo và biểu quyết). Đến đây TC/PHVN cảm thấy có dấu hiệu bất thường, nhưng vẫn tiếp tục làm việc với ông Hoàng Cơ Minh.
    
Quyết định rút ra khỏi MT:

Sự việc làm tràn ly nước là đại diện của TC/PHVN trong HĐCĐ nhận được báo cáo từ miền Nam California rằng báo chí tại đó đăng tải tin MT do ông Hoàng Cơ Minh lãnh đạo đã thành lập khu chiến, khu chiến lúc này chưa được thành lập (vì chưa có người), và sự việc này trái với nguyên tắc "chỉ công bố sự hiện hữu của MT tại buổi lễ ra mắt".

Ông Trần Văn Sơn chất vấn ông Hoàng Cơ Minh về việc tiết lộ tin tức không chính xác cho báo chí thì ông Hoàng Cơ Minh nói cần tung tin để động viên tinh thần đồng bào hải ngoại và tạo điều kiện cho Tổng vụ Hải ngoại gây dựng cơ sở.

Đến đây TC/PHVN nhận định rằng, từ lúc đầu các giao ước căn bản giữa ba tổ chức sáng lập đã không được tôn trọng, thì nhìn xa, cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ không thể thành công, và nếu thành công thì đất nước cũng sẽ rơi vào một thứ độc tài khác, nên trong Đại Hội III của TC/PHVN cuối năm 1981 sau khi nghe hai ông Trần Văn Sơn và Đỗ Hùng vừa từ Thái Lan trở về dự đại hội) tường trình, Đại hội đã biểu quyết rút ra khỏi MT.

Đại hội cũng biểu quyết chỉ thông báo quyết định rút lui cho ông Hoàng Cơ Minh và TC/NVTD và không công bố bất cứ điều gì với báo chí vào thời điểm đó để giữ vững tinh thần đấu tranh của cộng đồng hải ngoại.

Đây là quyết định khó khăn nhất của TC/PHVN, bởi lẽ, với vai trò của một thành viên sáng lập, sự rút lui của TC/PHVN khỏi Mặt Trận có thể tạo dư luận không mấy thuận lợi cho nỗ lực đoàn kết đấu tranh giải thể chế độ Cộng Sản.

Sau đại hội III TC/PHVN thông báo ông Hoàng Cơ Minh quyết định rút lui. Ông Hoàng Cơ Minh không thắc mắc gì. Khó khăn nhất là thông báo cho TC/NVTD, vì rút lui là TC/PHVN đã phụ lòng ủy thác của TC/NVTD.

Tuy nhiên TC/PHVN chỉ thông báo rút lui và không khuyến khích TC/NVTD cùng rút.  Nhưng khi TC/NVTD cho biết sẽ giải thể để gia nhập vào MT, TC/PHVN mới góp ý nên duy trì TC/NVTD để nếu công tác MT không mang lại kết quả thì anh em vẫn còn một cơ sở để tiếp tục cục đấu tranh.

Anh em TC/NVTD vẫn quyết định giải thể, và ngưng ấn hành tờ Người Việt Tự Do (phát hành tại Tokyo) rất được yêu chuộng vào thời điểm đó để dồn nỗ lực làm tờ Kháng Chiến, một cơ sở thông tin và vận dụng quần chúng của MT.

Sau này khi MT phân thành hai vì bất hòa nội bộ, ông Đỗ Thông Minh và ông Huỳnh Lương Thiện rút ra khỏi MT, một số anh em khác vẫn tiếp tục sinh hoạt với MT, trong đó có ông Ngô Chí Dũng, một Ủy viên của Hội đồng Chỉ đạọ Ông Ngô Chí Dũng sau này qua Thái Lan làm việc với ông Hoàng Cơ Minh và biệt tăm. MT chưa bao giờ giải thích sự biệt tăm của ông Ngô Chí Dũng.

Kính thưa ông,

Trong 24 năm qua TC/PHVN đã tự chế trong việc tiết lộ những điều trên. Hôm nay chúng tôi viết Thư ngỏ này gởi đến ông, và như đã thưa với ông, TC/PHVN không có mục đích gì khác hơn là làm sáng tỏ một số sự kiện lịch sử. Chúng tôi tôn trọng ý kiến của ông cũng như vẫn hằng tôn trọng các tổ chức đấu tranh đứng đắn khác.

Trân trọng kính chào ông

TM Tổ Chức Phục Hưng Việt Nam,
Ngô Đức Diễm
Phát Ngôn Nhân.







Cá nhân Phạm Hoàng Tùng chúng tôi trích mục bên dưới này trong Phần Tài Liệu của Hồi Ký Hành Trình Người Đi Cứu Nước để bạn đọc trong nước được rõ:


Việc Yểm Trợ Kháng Chiến
Ở Hải Ngoại

Đã nói tới hoạt động kháng chiến ở tiền tuyến, không thể không nói tới hoạt động yểm trợ tại hậu phương rộng lớn, khi đó là khoảng 1,5 triệu người Việt ở khắp nơi trên thế giới.(Một số hình ảnh bên dưới được trích từ bộ “Hồi Ký Một Đời Người” của cụ Phạm Ngọc Lũy).

Sự dấn thân lên đường của cựu Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đã được dư luận loan truyền, nhưng phải đợi đến khi Mặt Trận công bố Cương Lĩnh Chính trị ngày 8/3/1982 tại khu chiến thì mọi người mới biết rõ.

Sự dấn thân lên đường của cựu Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và nhiều chiến hữu đã làm nức lòng người Việt lưu vong, ngày ngày trông vời cố quốc. Đó là động lực chính đã thúc đẩy cao trào đấu tranh ở hải ngoại.

Tổ Chức Người Việt Tự Do đã giải tán để thành lập MT, nên tất cả thành viên của tổ chức đều gia nhập Mặt Trận. Cơ sở thực hiện nguyệt san Người Việt Tự Do của tổ chức tại San Jose, Cali, Mỹ đã đổi thành cơ sở thực hiện nguyệt san Kháng Chiến là cơ quan Tuyên Vận của MT do anh Đỗ Thông Minh làm Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút. Báo Kháng Chiến khổ tabloid (1/2 nhật báo), phát hành mỗi kỳ hơn 10.000 tờ.

Tin tức loan ra đã làm nức lòng người Việt khắp năm châu và Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến bao gồm khoảng 100 Ủy Ban đã được thành lập khắp nơi để yểm trợ cho hoạt động kháng chiến. Ngay đến các trại tỵ nạn tại Thái, Hồng Kông, Nhật Bản… cũng có Ủy Ban Yểm Trợ Kháng Chiến. Rất đông đồng bào tỵ nạn tại Nhật tự nguyện đóng góp mỗi tháng một ngày lương cho kháng chiến.

Ở Mỹ có chiến dịch mua gạo ăn từ Ủy Ban Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến thay vì mua gạo ngoài. Các nhà lãnh đạo tôn giáo như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành… cũng tham gia ủng hộ. 


Đại Hội Đồng Tâm ở San Jose,
 ngày 4/6/1983
với khoảng 3.000 người dự.

Đặc biệt nữ tài tử Kiều Chinh, ông Lữ Liên và Vũ Huyến là những người tích cực điều động, phối hợp với tòa báo Kháng Chiến để tổ chức các buổi văn nghệ gây quỹ ở các nơi. Đông đảo nghệ sĩ như Mai Thảo, Minh Đức Hoài Trinh, ban AVT (Lữ Liên, Vũ Huyến, Tường Duy), Trần Văn Trạch, Phạm Đình Chương, Khánh Ly, Lệ Thu, Elvis Phương, Hoàng Oanh, Minh Hiếu, Nguyệt Ánh, Việt Dũng, Dũng Thanh Lâm, Ngọc Phu, Trường Hải, Jo Marcel, Ngọc Minh, Trúc Mai, Kim Anh, Diễm Chi, Nhật Minh, Xuân Sơn, Vi Vân, Lê Nguyễn, Julie Quang, Châu Đình An, Quang Minh, Viễn Du… rồi Tam ca Thép Súng, ban Phương Nam, Ban The Sound, ban vũ Long Hoa, ban kịch Quốc Vũ… và nhiều nhiều nữa ở khắp nơi trên thế giới không kể ra hết được, mọi người đã tích cực tham gia yểm trợ kháng chiến.

Từ sau khi công bố Cương Lĩnh Mặt Trận ngày 8/3/1982, ở hải ngoại, phong trào yểm trợ kháng chiến bùng lên khắp nơi. Mọi hỗ trợ về tinh thần và vật chất cho kháng chiến quân đều do sự đóng góp của người Việt ở hải ngoại. Tổng số tiền quyên góp ước khoảng 10 triệu Mỹ kim?


Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh
đáp lễ cùng đồng bào
ngoài hội trường Garden Grove, 16/4/1983.



Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh cùng kháng chiến quân
từ khu chiến
về dự Đại Hội Chính Nghĩa
trong 3 ngày 28-30/4/1983 tại Wa DC.

Cao điểm nhất của hoạt động yểm trợ kháng chiến được đánh dấu bằng Đại Hội Chính Nghĩa tổ chức trong 3 ngày 28-30/4/1983 tại Wa DC, thủ đô Hoa Kỳ.


Tại Đại Hội Chính Nghĩa, cụ Phạm Ngọc Lũy,
Chủ Tịch Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến
kết tụ 5 ngọn nến tượng trưng
cho người Việt ở khắp 5 châu.

Đoàn Văn Nghệ Kháng Chiến có nơi như San Jose (Bắc Cali) lên tới khoảng hơn 200 người, Nam Cali khoảng 120 người, Houston khoảng 80 người... Tính ra cũng có hàng mấy chục Đoàn Văn Nghệ Kháng Chiến ở các nơi. Họ cất cao tiếng hát ca ngợi cuộc đấu tranh và kêu gọi mọi người yểm trợ và đồng hương cũng đã nức lòng hưởng ứng. Không tháng nào mà không có những buổi văn nghệ yểm trợ kháng chiến, có tháng 3, 4 nơi cùng tổ chức.

Cuối năm 1984, khi hay tin Mặt Trận đổ vỡ ở thượng tầng, biết bao người già trẻ đã phải khóc uất nghẹn, biết bao người tức giận cùng cực vì cảm thấy bị phản bội. Biết bao cụ già đứng đầu các Ủy Ban Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến cũng cảm thấy tủi hổ vì không biết trả lời sao với đồng bào!?


Trừ trái qua phải:
Các ông Phạm Văn Liễu, Nguyễn Cao Kỳ…
trong một sinh hoạt yểm trợ kháng chiến
tại Nam Cali.

Do những tranh chấp nội bộ này mà khí thế đấu tranh xuống dần, MT đã lập tổ chức yểm trợ khác gọi là Quỹ Tiếp Vận Kháng Chiến, mức đóng góp giảm đáng kể, từ đầu thập niên 90 coi như MT không còn quyên góp công khai từ đồng bào nữa.

Trích từ: Việc Yểm Trợ Kháng Chiến Ở Hải Ngoại.







NIÊN BIỂU MẶT TRẬN

Phần bên dưới đây do cá nhân Phạm Hoàng Tùng chúng tôi trích từ tài liệu NIÊN BIỂU MẶT TRẬN QUỐC GIA THỐNG NHẤT
GIẢI PHÓNG VIỆT NAM - VIỆT NAM CANH TÂN CÁCH MẠNG ĐẢNG do cựu sáng lập viên MT, ông Đỗ Thông Minh biên soạn, và đã được đăng trong phần đầu của Hồi Ký Hành Trình Người Đi Cứu Nước: 

- 6/10/1982, Bác Sĩ Hoàng Cơ Trường (em út ông Hoàng Cơ Minh, nguyên là Bác Sĩ binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, Ủy Viên Trung Ương Tổng Vụ Hải Ngoại, sáng lập và tổ chức các Đoàn Văn Nghệ Kháng Chiến ở Nam - Bắc Cali, giai đoạn đầu quy tụ khoảng 200 đoàn viên…) bị ung thư gan và đã mất tại Fresno, trung bộ Cali, lúc mới 42 tuổi. Đoàn viên Mặt Trận ở hải ngoại mặc đồng phục áo nâu, quần vàng là theo mẫu đề nghị của Bác Sĩ Hoàng Cơ Trường. Khi đưa đám ông Hoàng Cơ Trường, Đỗ Thông Minh là một trong sáu người khiêng quan tài.

- 1/4/1982, cơ sở nguyệt san Người Việt Tự Do tại San Jose, Cali, Mỹ biến thành cơ sở Mặt Trận, bắt đầu phát hành nguyệt san Kháng Chiến, mỗi kỳ hơn 10.000 tờ, do Đỗ Thông Minh làm Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút, đồng thời phụ trách cả tờ Đông Tiến số 1, phát hành ngày 1/11/1982, là nội san của Vụ Nghiên Huấn.

Nhưng ngay từ đầu năm 1983, Đỗ Thông Minh đã chán ngán về những tranh chấp nội bộ giữa ông Hoàng Cơ Minh và Phạm Văn Liễu… ngày càng gia tăng, hệ thống điều hành bị đảo lộn, nên đã trở về Nhật.

Ký giả Lê Thiệp không phải là đoàn viên MT được Ngô Chí Dũng kêu từ miền Đông về thế làm báo độ 1 năm, sau trao lại ông Huỳnh Lương Thiện cũng từ Nhật qua làm cho tới khi khủng hoảng Mặt Trận xảy ra cuối năm 1984. Trước áp lực của dư luận muốn biết những thành quả cụ thể của công cuộc đấu tranh và để kích động lòng người, tờ báo đã cho đăng nhiều tin chiến đấu, giải phóng ngụy tạo từ khu chiến đưa ra.

Khoảng cuối thập niên 80, Mặt Trận ngưng phát hành báo Kháng Chiến, đổi qua nguyệt san Canh Tân nhưng chỉ được vài nă

- 3/4/1982, đồng bào đứng ra lập Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến, cụ Phạm Ngọc Lũy được cử làm Chủ Tịch. Cụ Phạm Ngọc Lũy nguyên là Thuyền Trưởng tàu Trường Xuân đã đưa 3.628 người đi tìm tự do tại Hồng Kông ngay 1 giờ 25 phút chiều ngày 30/4/1975.

Phong Trào Trung Ương đã tổ chức lễ ra mắt trước hàng ngàn đồng hương tại Wa DC. Sau đó, gần 200 Ủy Ban Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến được thành lập tại khắp nơi trên thế giới, kể cả trong nhiều trại tị nạn. Ngày 28/11/1982, khoảng 2.000 đồng bào đã tham dự lễ ra mắt Ủy Ban Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến tại Paris

Chưa bao giờ trong cộng đồng người Việt lại có công cuộc vận động lớn lao như thế. Các nhà lãnh đạo tôn giáo như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành… cũng tham gia ủng hộ. Nữ tài tử Kiều Chinh và các nghệ sĩ tích cực tham gia yểm trợ kháng chiến. Văn Nghệ Yểm Trợ Kháng Chiến tại Long Beach ngày 28/8/1982 đã quy tụ 3.000 người… Khắp nơi, nhiều cụ già đã cởi cả vòng vàng ra đóng góp mong cho ngày kháng chiến sớm thành công!



Lon Yểm Trợ Kháng Chiến thời đó được đặt khắp mọi nơi. Nhiều phương thức yểm trợ như mua gạo ăn của Ủy Ban Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến để gây quỹ thay vì mua bên ngoài, mua dụng cụ y khoa, thuốc men gởi về khu chiến... Tổng số tiền Mặt Trận quyên góp từ đoàn viên và đồng hương cũng như các thu nhập kinh tài… do ông Hoàng Cơ Định làm Tổng Thư Ký kiêm Vụ Trưởng Vụ Tài Chính quản lý, được giữ bí mật, ước độ 10 triệu Mỹ kim?

- 29/12/1984, ông Hoàng Cơ Minh nhân danh Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc cùng ông Nguyễn Trọng Hùng từ khu chiến ra, hội họp khoảng 70 đoàn viên thuộc một số cơ sở vào buổi chiều tại San Jose, Bắc Cali, công bố văn thư cách chức ông Phạm Văn Liễu (sau đó cũng bỏ Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến, lập Quỹ Tiếp Vận Kháng Chiến, đầu thập niên 90 hầu như không còn quyên tiền đồng bào nữa).

Trong khi ông Trần Minh Công nhân danh Khu Bộ Trưởng Bắc Mỹ kiêm Phát Ngôn Nhân… mở cuộc họp quy tụ khoảng 200 đại diện các cơ sở Mặt Trận ở Bắc Mỹ với sự tham dự của ông Phạm Văn Liễu, cụ Phạm Ngọc Lũy tại Nam Cali, bác bỏ quyết định trên và bất tín nhiệm ông Hoàng Cơ Minh.

Nhiều đoàn viên thấy chuyện tranh chấp vô phương cứu chữa đã phải bật khóc. Tranh chấp về việc đăng bài trên tờ báo Kháng Chiến, khiến ông Huỳnh Lương Thiện khi đó là Chủ Nhiệm đã bất chấp lịnh của Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh không cho in, rồi từ tòa soạn ở San Jose bỏ qua Wa DC lánh nạn. Sau đó, Đỗ Thông Minh, Huỳnh Lương Thiện (11)… và hàng ngàn đoàn viên dần dần từ bỏ Mặt Trận.

Có lẽ chưa bao giờ người Việt phải chứng kiến cảnh chia rẽ, tan nát đáng đau buồn đến như vậy!? Rất nhiều đoàn viên nam cũng như nữ không kềm được tiếng khóc uất nghẹn.

Một số đoàn viên tại Mỹ đã tách ra lập tổ chức mới là Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam (không có chữ Thống Nhất), khoảng 1 năm sau đổi thành Lực Lượng Việt Nam Tự Do. Năm 2006, còn khoảng hơn 100 đoàn viên hoạt động.

Các sự kiện này đã làm tan nát niềm tin của đồng bào và dư luận thất vọng não nề! Những ngày hào khí ngất trời không còn nữa và hầu như không thể tái lập nữa!

- 1991, các ông Hoàng Cơ Định (Dean Nakamura), Trần Xuân Ninh (Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoại) và Nguyễn Xuân Nghĩa tức Nguyễn Đồng Sơn, mới tham gia sau đại hội Chính Nghĩa 1983, Vụ Trưởng Vụ Tuyên Vận) thuộc Mặt Trận kiện các ông Cao Thế Dung, Nguyễn Thanh Hoàng (Chủ Nhiệm bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong) và Vũ Ngự Chiêu (Nguyên Vũ, nhà xuất bản Đa Nguyên - Văn Hóa) về tội vu khống, mạ lỵ… (qua bộ 2 cuốn Mặt Trận Những Sự Thật Chưa Hề Được Kể và 3 bài báo của ông Cao Thế Dung viết năm 1990 - 91 cho là Mặt Trận đã âm mưu sát hại vợ chồng ký giả Lê Triết ngày 22/9/1990 tại Wa DC…) và đòi bồi thường 550.000 Mỹ kim.

Nhưng bên nguyên đã bị tòa ở San Jose xử thua kiện (với tỷ số bồi thẩm đoàn 11/12) qua phiên tòa kéo dài 5-22/12/1994, nên phải trả tốn phí khoảng 150.000 Mỹ kim.

- 10/4/1991, 5 nhân vật lãnh đạo Mặt Trận là Nguyễn Kim Hườn, Hoàng Cơ Định và vợ là Phan Thị Hà, Nguyễn Tấn Bính, Phan Duy Cần bất thần bị sở thuế Mỹ truy tố về nhiều tội, như 26 tội không khai thuế, khai gian thuế, trốn thuế trong việc quản lý tài chính Mặt Trận và trả lương... Mỗi người phải đóng 100.000 Mỹ kim để được tại ngoại.

Mặt Trận lập Quỹ Pháp Lý vận động quyên góp đồng hương được khoảng 120.000 Mỹ Kim để lo vụ án. Nhưng có lẽ qua sự thu xếp bên trong, sở thuế Mỹ đã để cho quá thời hạn và bãi nại?
Đỗ Thông Minh.







Bài viết bên dưới này do cá nhân PHT chúng tôi trích trong Phần Tài Liệu của Hồi Ký Hành Trình Người Đi Cứu Nước.


ĐỖ THÔNG MINH: NGƯỜI TÌM ĐƯỜNG
Đường đời trăm vạn nẻo
Đâu lối về cố hương?

                                                                                    Giao Chỉ - San Jose 2006

Ông Đỗ Thông Minh năm nay 56 tuổi, sinh năm 1950, quê Nam Định, có vợ và 3 con, hiện định cư tại Đông Kinh, Nhật Bản.

Hơn 30 năm trước, các sinh viên Việt Nam còn trẻ du học tại Nhật Bản tên tuổi đều lịch sự ngon lành. Người thì “Thông Minh” người thì “Lương Thiện”. Tên tuổi cha mẹ đặt cho như thế thì thật là vất vả một đời. Phải cố gắng học hành và làm ăn tử tế.

Sau 30 tháng 4-1975, đám sinh viên quốc gia chống Cộng du học trên thế giới đều bị hụt hẫng. Các anh chị em Việt Nam ở Đông Kinh cũng như vậy. Sau khi nỗ lực tìm cách giúp đỡ người tỵ nạn di tản thì nhóm này là những người đầu tiên nghĩ đến đầu cầu Thái Lan khi tìm đường trở về.

Tuy nhiên, tổ chức “Người Việt Tự Do” tại Nhật Bản gồm toàn các thanh niên còn trẻ, dưới 30 tuổi. Lòng hăng hái nhiệt thành sẵn có, nhưng hoàn toàn không có kinh nghiệm, không có phương tiện, chưa tạo được sự tin tưởng và hoàn toàn vô danh đối với cộng đồng tỵ nạn đã bắt đầu hình thành tại Hoa Kỳ. Họ đã từng đi qua Thái Lan, khi thăm dò, gặp sứ quân tướng lãnh Thái Lan, ai cũng bảo rằng, phải đi Mỹ tìm cho được một người đã từng đeo sao trên cổ áo.

Vì vậy, con đường về quê hương phải bắt đầu bằng chuyến đi tìm lãnh tụ.

Đỗ Thông Minh, trong những chuyến đi khởi đầu năm 1978, từ Đông Kinh qua Hoa kỳ đã tiếp xúc với các hội đoàn và các vị tướng lãnh tỵ nạn. Ông muốn đi tìm một tướng công Việt Nam Cộng Hòa thật sự muốn dấn thân trở về.

Ông đã đi gặp nhiều các niên trưởng lãnh đạo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau cùng, ông đã gặp một người thợ sơn bất đắc dĩ ở Virginia đang bồn chồn nóng nảy muốn vất cây cọ để cầm lại cây súng, người đó là Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh.

Ngày 15 tháng 6-1981, có ba người đại diện cho ba tổ chức đã ngồi lại để mở đường cho chuyến đi lịch sử. Tướng Hoàng Cơ Minh đại diện Lực Lượng Quân Dân, ông Trần Văn Sơn của tổ chức Phục Hưng Việt Nam và ông Đỗ Thông Minh của tổ chức Người Việt Tự Do. Ông Minh và ông Sơn đều thuộc Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã ngoài 45 tuổi, còn Đỗ Thông Minh mới có 31 tuổi.

Sau chuyến mở đường tiếp xúc với phe quân sự Thái Lan được sự hứa hẹn đầy triển vọng, phái đoàn trở về chuẩn bị.

Ngày 20 tháng 8-1981, nhóm công tác chính thức của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam lên đường đi lập chiến khu. Tổng cộng là 7 người và hầu hết hiện nay đã hy sinh. Trong đó có các ông Hoàng Cơ Minh, Lê Hồng, Nguyễn Trọng Hùng, Trần Thiện Khải v.v...

Ngày 20 tháng 10-1981, tổ chức Phục Hưng Việt Nam lúc đó có ông Trần Văn Sơn và một thanh niên (từ San Jose?) là ông Đỗ Hùng lên đường qua Thái Lan tìm hiểu tình hình tại chỗ.

Ngày 20 tháng 2-1982, Người Việt Tự Do gửi các ông Ngô Chí Dũng và Bùi Bằng Đoàn từ Nhật qua Thái Lan. Ngô Chí Dũng phụ trách Trưởng đài phát thanh Việt Nam Kháng Chiến, nay đã mất tích và Bùi Bằng Đoàn tức là Lý Thái Hùng của Việt Tân ngày nay.

Ngày 24 tháng 2-1982, các ông Đại Tá Phạm Văn Liễu, ký giả Hoàng Xuân Yên và giáo sư Trương Bổn Tài từ Mỹ qua Thái dự lễ công bố công lĩnh chính trị. Một phóng viên TV của CBS đã đi theo và quay được đoạn phim 5 phút lịch sử mở đường cho giai đoạn hào hùng nhất của câu chuyện Kháng Chiến ra đời. Buổi lễ này tổ chức vào ngày 8 tháng 3-1982.

Ngày 31 tháng 3-1982 với mấy phút trong bản tin thời sự buổi chiều truyền đi khắp nước Mỹ do Dan Rather của CBS giới thiệu đã làm rung động toàn thể cộng đồng Việt hải ngoại. Hòa nhịp theo những xúc động của mọi người, Giao Chỉ đã viết bài văn đầu tiên cho Kháng Chiến có tựa đề là “Đường Mòn Hoàng Cơ Minh.”

Rồi Tổng Vụ Hải Ngoại thành lập trong giai đoạn sơ khởi tổ chức đã từng chỉ định ông Huỳnh Lương Thiện làm Tổng Vụ Phó cho cựu Đại Tá Liễu trong chức vụ Tổng Vụ Trưởng, nhưng về sau ông Thiện chỉ thực sự nhận làm báo Kháng Chiến.

Trong vai trò đại diện tổ chức Phục Hưng, giáo sư Ngô Đức Diễm cũng đã từng đảm trách Phát Ngôn Viên (Tổng Thư Ký?) của Kháng Chiến một thời gian ngắn. Nhưng về sau vì bất đồng quan điểm nên chỉ còn Người Việt Tự Do và Lực Lượng Quân Dân chính thức giải tán để thành lập Mặt Trận. Riêng tổ chức Phục Hưng rút lui.

Bắt đầu từ 1 tháng 4-1982, tờ nguyệt san Người Việt Tự Do tại San Jose cải tổ thành cơ sở chính thức của Mặt Trận. Ông Đỗ Thông Minh làm Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút báo Kháng Chiến đầu tiên, phát hành 10 ngàn số mỗi kỳ. Cách nay 25 năm, đây là con số phát hành kỷ lục.

Tuy nhiên đến năm 1983, bắt đầu có xích mích nặng ở thượng tầng, ông Đỗ Thông Minh về lại Nhật Bản, báo Kháng Chiến do ký giả Lê Thiệp đảm trách một năm rồi giao lại ông Huỳnh Lương Thiện cho đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng Mặt Trận bể làm hai giữa ông Liễu và ông Minh.

Như vậy, lịch sử Kháng Chiến Phục Quốc của tướng Minh thật sự đã ra đời và nằm trong nôi tại San Jose với nhiều tên tuổi, nhân chứng vẫn còn có mặt hôm nay. Ông Hoàng Xuân Yên, ông Trương Bổn Tài, Đỗ Hùng, Ngô Đức Diễm, Huỳnh Lương Thiện cùng nhiều người khác và đặc biệt với người nhân chứng mở đường là Đỗ Thông Minh.

Có người ghé qua chốc lát, có người đi bên nhau chỉ một đoạn đường. Rồi sau đó...
Anh đi đường anh, tôi đường tôi.
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.

Xem ra, cuộc giã từ sớm sủa của Phục Hưng và lưu luyến thêm vài năm sau của Người Việt Tự Do đối với Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh lại là những cuộc chia ly đẹp đẽ nhất vào thời kỳ 80.


Ba sáng lập viên MTQGTNGPVN.
Trái qua phải:
Đỗ Thông Minh, Trần Văn Sơn, Hoàng Cơ Minh
Bangkok, Thái Lan (15-21/6/1981).
Ảnh nguồn: Hồi Ký Kháng Chiến
Hành Trình Người Đi Cứu Nước
của Phạm Hoàng Tùng.
Cá nhân PHT chúng tôi đưa hình vào bài viết
để minh họa sự kiện.

*    *    *

Từ giã Kháng Chiến, Đỗ Thông Minh trở lại Đông Kinh gây dựng cơ sở Tân Văn. Theo gương người xưa, ông đi con đường của một thời Đông Kinh Nghĩa Thục.

Từ Nhật Bản, Đỗ Thông Minh ngày nay không còn vất vả đi tìm lãnh tụ. Ông lấy công việc biên khảo và xuất bản là trọng tâm công tác. Ông nghiên cứu để phát huy văn hóa Việt Nam tại hải ngoại cũng như trong nước và giao lưu Việt-Nhật.

Những sự đóng góp về văn hóa của ông qua nhiều năm đã trở thành một kho tàng biên khảo đồ sộ với các loại tự điển Hán, Việt, Anh, Nhật và tự điển tin học. Ông cũng là người tổ chức kỷ niệm và ra sách 100 Năm Phong Trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, Cường Để cũng như 100 Năm Phong Trào Duy Tân của cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp…

Qua hệ thống điện toán, ông đã cộng tác với rất nhiều cơ quan truyền thông hải ngoại, đã du thuyết hàng trăm lần trên khắp thế giới, đặc biệt đẩy mạnh từ năm 2002, với mục tiêu sơ khởi là đi nói chuyện trong 10 năm và đồng thời cũng đã được các chương trình Radio, TV khắp nơi phỏng vấn về mọi đề tài.

Với địa vị đặc biệt đã xây dựng nhiều năm tại Đông Kinh, ông là người Việt bắc nhịp cầu giữa Nhật Bản và cộng đồng Việt hải ngoại. Tính từ 1978 đến 2006, ông đã đi gần khắp năm châu bốn bể nhiều lần để thuyết trình về các đề tài văn học. Đặc biệt từ Tokyo, ông đã đi Mỹ tổng cộng 27 lần. Nhiều phái đoàn Việt Nam từ hải ngoại qua Nhật Bản đều nhờ sự hướng dẫn của cơ sở Mekong do Đỗ Thông Minh thành lập.

Mặc dù còn trẻ nhưng Đỗ Thông Minh không phải là người hoàn toàn khỏe mạnh. Người học giả tâm huyết và nhiệt thành của cộng đồng Việt hải ngoại hiện đã hoàn toàn bị hư hai trái thận. Suốt bao nhiêu năm qua, ông còn sống được là nhờ một trái thận do vợ hiền trao tặng từ năm 1990.

Con người một thời mở đường cho Kháng Chiến, con người đã đóng vai kẻ tìm đường từ năm 1980. Một Pathfinder của thế giới người Việt tỵ nạn, thành viên sáng lập của tổ chức Người Việt Tự Do ở Nhật Bản một thời mơ mộng: “Mai này chúng ta cùng về Việt Nam.”. Bây giờ ông đã tìm thấy lối đi. Con đường về quê hương của Đỗ Thông Minh đi theo ngả văn hóa, với hành trang tin học, tự điển, bài viết về Việt - Hán - Nôm… và loạt bài Tự Vấn với hoài bão thay đổi tư duy của người Việt, hầu vượt thoát quãng tụt hậu hiện nay.

Một trái thận của vợ luôn luôn đeo trong mình. Trên chuyến bay viễn du vòng quanh thế giới để đi nói chuyện văn hóa, học giả Đỗ Thông Minh của chúng ta mỗi khi nhớ thương vợ hiền để lại quê người, ông không để tay lên trái tim như thiên hạ thường tình, ông để tay vào bụng, để chắc chắn rằng, trái thận của tình yêu vẫn còn đang làm việc.

Tháng 9 năm nay, Đỗ Thông Minh từ Đông Kinh trở lại Hoa Kỳ lần thứ 28 trong chuyến đi 7 tuần, nói chuyện tại 14 nơi. Ông sẽ không nói chuyện văn hóa hay luận bàn về chuyện người Việt xấu tốt ở chỗ nào. Sau khi chia tay với Kháng Chiến 20 năm trước, lần này Đỗ Thông Minh trở lại Thung Lũng Hoa Vàng San Jose, Cali để làm nhân chứng cho Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh.

Ông Đỗ Thông Minh sẽ thay mặt cho kháng chiến quân Phạm Hoàng Tùng, tác giả cuốn hồi ký kháng chiến Hành Trình Người Đi Cứu Nước, còn đang mang nặng kiếp lưu đày ở Cam Bốt, đem đến San Jose bản báo cáo cuối cùng của một kháng chiến quân còn sống sót. Ông sẽ nói về cái chết của tướng Hoàng Cơ Minh, người mà ông đã một thời tin tưởng là sẽ mở được đường về và các kháng chiến quân...

Đây là một cuốn sách được chờ đợi 25 năm sẽ ra mắt lần đầu tiên tại San Jose.

Xin nhắc lại vào đầu thập niên 80, Kháng chiến Hoàng Cơ Minh ra đời tại San Jose và bây giờ vào năm 2006, tác phẩm viết về câu chuyện người đi cứu nước bên kia biên giới sẽ được coi như bản phúc trình tổng kết của một giai đoạn tranh đấu bằng võ lực.

Câu chuyện dài hào hùng, đau thương và cay đắng vẫn kéo dài những thắc mắc đến ngày nay.

Bao nhiêu người đã chết, bao nhiêu người còn sống. Bao nhiêu lần ngồi lại và bao nhiêu lần chia tay.

Chương trình ra mắt sách vào chiều thứ Bảy 30 tháng 9-2006 tại San Jose sẽ được chuẩn bị chu đáo, có chiếu phim về công cuộc kháng chiến phục quốc từ Trần Văn Bá (Pháp Quốc) đến Võ Đại Tôn (Úc Châu) và Hoàng Cơ Minh (Hoa Kỳ).

Quan khách sẽ được nghe các bản nhạc chiến khu bất hủ của kháng chiến quân Trần Thiện Khải, người đã tự sát tại Hạ Lào để khỏi rơi vào tay địch.

Trong chúng ta ai mà chẳng nghĩ đến quê hương đất nước. Nếu muốn biết sự thật về câu chuyện 10 năm kháng chiến từ 1981 đến 1990 tại Đông Nam Á, buổi ra mắt sách sẽ là câu trả lời cho mọi trăn trở suốt bao năm qua.

Từ sau 1990 cho đến nay, một trang lịch sử đấu tranh mới đã mở ra mặt trận chính trị. Con đường mới là con đường đòi hỏi dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. Nhưng lòng người vẫn còn thắc mắc chưa giải tỏa về giai đoạn ngày xưa đã mở đường về nước bằng súng đạn nhưng không thành. Bộ hồi ký 2 cuốn dày 932 trang của một người đi cứu nước sẽ giúp chúng ta có các chứng liệu để suy ngẫm.

Mặc dù tác phẩm có giá trị nhân chứng nhưng thực tế vẫn có thể còn đem đến nhiều sự phê phán. Những nhận xét của tác giả về chuyện xảy ra trên thế giới, trong nước và về cộng đồng Việt hải ngoại phải được coi như hoàn toàn có tính cách cá nhân với sự hiểu biết và tin tức giới hạn. Ngoài ra, phần viết về quan điểm xây dựng đất nước đều hoàn toàn chủ quan với nhận xét riêng của tác giả.

Ngoài ra, một vài đoạn ghi lại những dữ kiện trong những năm đi kháng chiến vẫn còn có thể coi như chưa phải là chính thức. Những sự kiện mắt thấy tai nghe còn lẫn với chuyện được tác giả nghe kể lại trong tù. Độc giả đọc sách vẫn cần phải tự gạn lọc để nhận thức các điểm nào xác tín và các điểm hoài nghi.

Sau cùng, đây là một cuốn sách cần tìm đọc và việc thẩm định sau cùng trong tay quý độc giả. Người đem cuốn sách từ Đông Kinh đến San Jose là Đỗ Thông Minh, người tìm đường của thập niên 80. Hy vọng rằng, cuốn hồi ký là bản báo cáo của những người vừa thông minh vừa lương thiện.

Thế hệ sau này học được nhiều qua gương thành công của tiền nhân. Nhưng hậu thế cũng học được qua những bài học thất bại của người đi trước. Những người đã xả thân viết nên bài học đau thương để làm nền móng đấu tranh cho đời sau. Từng thế hệ nối tiếp phải thay nhau lên đường.

Xa xa phía trước vẫn là những kẻ dò đường. The Pathfinder. Đỗ Thông Minh là một trong những người tìm đường của chúng ta.

Một lần nữa, San Jose chào đón con người đã có lần tạm cư ở đất này, làm báo “Người Việt Tự Do” ấn bản Bắc Mỹ và sau trở thành báo Kháng Chiến.

Đó là thời kỳ của những năm 80.

Cuốn sách của ông giới thiệu sẽ nằm trong thư viện của Viện Bảo Tàng Việt Nam tại San Jose. Trong phần thư mục của trang sử Kháng Chiến Phục Quốc hết sức hào hùng và bi thảm. Chính những trang sử của thất bại sẽ hạ sinh những thành quả vẻ vang trong tương lai. “Thất bại là mẹ thành công.” Những sự hy sinh cao quý không bao giờ vô ích, vì vậy sẽ không bao giờ bị lãng quên.

Xin mời quý vị đến với “Hồi Ký Của Người Đi Cứu Nước.”
Thứ Bảy 30 tháng 9-2006, một ngày làm sống lại cả 25 năm trước.   

Giao Chỉ - San Jose, 2006








Bài thơ này do cá nhân PHT chúng tôi trích từ Phần Ý Kiến Bạn Đọc trong Hồi Ký Hành Trình Người Đi Cứu Nước.


Cảm Nghĩ Của Một Độc Giả Khi Đọc
“Đốm Lửa Quê Người”
viết về các kháng chiến quân của
Giao Chỉ Vũ Văn Lộc

Ngậm ngùi thương cảm những người đã hy sinh cuộc sống và sinh mạng cho lý tưởng, cho đất nước, trong bài “Đốm Lửa Quê Người” của Đại Tá Vũ Văn Lộc, bút hiệu Giao Chỉ. Bài này đăng trên Đàn Chim Việt, DCVOnline.

Leo lét sáng giữa rừng đen đậm đặc,
Áng đèn đêm trong khu vực Hạ Lào,
Ánh đèn ơi, gợi buồn nhớ biết bao,
Những buổi tối quê nhà sao hạnh phúc.
Từ 75, khi đi lòng đã quyết,
Dù biết trăm phần chết vẫn ơ hờ,
Tìm đường về kháng chiến chống cộng nô,
Cương quyết làm việc vá trời đội đá.
Lập chiến khu ở Thái Lan, Cam Bốt,
Vượt núi đồi, rừng, biển rộng về Nam,
Âm thầm đi khi bóng tối giăng màn,
Tự khắc phục bao khó khăn, gian khổ.
Thần chết chờ từng bước đi, cử động,
Ngàn địch quân theo rình rập săn mồi,
Vài trăm quân kháng chiến quá nhỏ nhoi,
Lừng lững bước, phó đời cho mệnh số.
Máu đã tuôn, bao thân người đã đổ,
Chết trong tù hay chết giữa rừng già,
Bởi đạn thù hay bởi đạn của ta,
Hào hùng quá một đời trai chí cả.
Người bị bắt chốn lao tù chịu khổ,
Đã bao năm vẫn chưa có ngày ra,
Chiến đấu thành công, mừng có tự do,
Còn thất bại xin ai cho phát súng.
Cuộc tranh đấu ôi tang thương, bi thảm,
Hiến dâng về đất mẹ với tương lai,
“Đèn nhà ai hay đốm lửa quê người” (*)
Trong u tối sáng soi lòng yêu nước.

(*) “Này em, anh sẽ về bên kia biên giới.
Đèn nhà ai hay đốm lửa quê người.”
Hai câu trong nhạc phẩm “Trăng Chiến Khu” của kháng chiến quân kiêm nhạc sĩ Trần Thiện Khải, đã tự sát sau khi bị thương trên đường Đông Tiến từ Thái Lan về Việt Nam.

Nguyễn P. Thúy
August 16, 2006.







Trao đổi với học giả Đỗ Thông Minh từ Nhật Bản
về hồi ký 2 tập Hành Trình Người Đi Cứu Nước
 của Phạm Hoàng Tùng


Ông Đỗ Thông Minh ngồi giữa.
Ảnh nguồn: Cali Today.

Cali Today News – Có lẽ một người sống ở Nhật mà ai ở Mỹ cũng biết đến chính là học giả Đỗ Thông Minh. Trong suốt 30 năm qua, anh đã đến Mỹ tới 28 lần, mà mỗi lần đến là mang đến cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ những điều quan trọng: Có khi là một ý tưởng, có khi là một phong trào đấu tranh, có khi là một công trình nghiên cứu mới,… và lần này là giới thiệu một bộ hồi ký hai tập của một kháng chiến quân phục quốc Phạm Hoàng Tùng…

Thời gian trôi qua khá lâu từ ngày các tổ chức kháng chiến quân lập căn cứ trên đất Thái, rồi từ đó, những đoàn quân kháng chiến phục quốc bước những dặm đường mang dũng khí phục quốc… thế nhưng những câu chuyện về hành trình đó vẫn còn nhiều bí ẩn…

Trong số trên 200 kháng chiến quân ngày ấy, biết bao người đã anh dũng hy sinh, biết bao nhiêu người bị tù đày trong các nhà tù Việt Cộng, và có rất ít người còn sống sót, mà một trong những người ít ỏi đó chính là tác giả của tập hồi ký Phạm Hoàng Tùng…

Anh đã viết lại trang sử đầy máu và nước mắt nhưng cũng đầy hùng tráng này để lại cho hậu thế và cho những người còn sống một ánh hào quang về hình ảnh của những người kháng chiến quân phục quốc ngày nào…

Hai tập, gần 1000 trang sách, nhưng có lẽ vẫn chưa thể nào nói hết khí tiết tinh anh, dũng khí kiêu hùng,… của những chàng trai kháng chiến quân một thuở.

Người giới thiệu các tác phẩm này chính là anh Đỗ Thông Minh, một học giả hiện nay, một người trong số người khai sáng phong trào kháng chiến phục quốc ngày nào.

Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng, cộng tác viên trang mục chính trị – cộng đồng của nhật báo Cali Today – phỏng vấn anh Đỗ Thông Minh khi anh đến San Jose ra mắt tác phẩm này.

Ông Đỗ Thông Minh nói: “San Jose từng là chiếc nôi, nơi xuất phát của phong trào kháng chiến, và do vậy, hồi ký này được ra mắt tại San Jose trước nhất.”

Ngày ấy, Đỗ Thông Minh mái tóc còn đen, và bây giờ tóc đã bạc màu sương gió. Nhìn anh, anh Nguyễn Hồng Dũng thốt lên một câu thơ cổ:

“Việc nước chưa xong, đầu đã bạc…”

Tuy tóc đã bạc màu, nhưng khi bàn đến chuyện quốc sự, các anh vẫn còn sôi nổi như thưở nào.

Nguyễn Dương.









Bài này cá nhân Phạm Hoàng Tùng chúng tôi trích từ diễn đàn liên mạng để bạn đọc blog có cái nhìn rõ thêm về Việt Tân.


Saigon Nhỏ ngày 2.9.2006
Tú Gàn
Tìm đường trở về?

Chúng ta còn nhớ, sau nhiều năm im lặng, ngày 20.7.2001, “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam”, thường được gọi là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, đã chính thức thông báo cùng thân hữu và đồng bào rằng các lãnh đạo sau đây của Mặt Trận là Hoàng Cơ Minh, Lê Hồng, Trần Thiện Khải, Võ Hoàng đã “anh dũng hy sinh trên bước đường tranh đấu giải phóng Tổ Quốc”.

Thông báo cũng cho biết Lễ Truy Điệu các Chiến Hữu Lãnh Đạo cùng toàn thể các Kháng Chiến Quân và Đoàn Viên Mặt Trận đã hy sinh vì Tổ Quốc sẽ được cử hành trọng thể vào ngày 26.8.2001 tại một số thành phố trên thế giới, địa điểm sẽ được các Ủy Ban Tổ Chức thông báo trong những ngày tới.

Kể từ đó, hàng năm Mặt Trận (nay là Đảng Việt Tân) đều có tổ chức lể tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh nói trên, lúc nơi này, lúc nơi khác.

Nhưng năm nay, Đảng Việt Tân “êm re”. Được hỏi ngày 28 tháng 8, ngày kỷ niệm Tướng Hoàng Cơ Minh hy sinh sắp đến rồi mà tại sao không thấy Đảng Việt Tân động tĩnh gì cả, nhưng người thuộc nhóm “kiên định” vừa ly khai cho rằng ban lãnh đạo Đảng Việt Tân đã thay đổi đường lối sau đại hội tháng 9 năm 2004, muốn về tham gia chính trị ở trong nước, nên không tổ chức truy điệu nữa, vì sợ việc truy điệu sẽ ảnh hưởng không tốt đến chủ trương “hòa giải hòa hợp”.

Đây chỉ là ý kiến của phía “kiên định.” Cuối cùng, Đảng Việt Tân đã “xuất hiện” và tổ chức lễ tưởng niệm!

Thật ra, việc tưởng niệm Tướng Hoàng Cơ Minh và các chiến sĩ đã hy sinh trong ba chiến dịch Đông Tiến do Mặt Trận tổ chức là rất chính đáng, vì họ là những người đã sẵn sàng hy sinh cho một nước Việt Nam tự do hơn, dân chủ hơn và phú cường hơn, mặc dầu những nỗ lực của họ bị thất bại. Sự hy sinh của họ đáng được mọi người ghi nhớ và noi gương.

SỰ RA ĐI CỦA TƯỚNG HOÀNG CƠ MINH

Mặc dầu Mặt Trận không chính thức cho biết Tướng Hoàng Cơ Minh đã hy sinh lúc nào và trong trường hợp nào, nhưng những tin tức do các chiến hữu của Tướng Minh cho biết rất chính xác.

Ngày 28.8.1987, hãng thông tấn UPI viện dẫn tin từ đài phát thanh Lào cho biết Tướng Hoàng Cơ Minh đã tử trận. Nguyễn Tấn Phát, một chiến hữu của Tướng Hoàng Cơ Minh cho biết những điều anh đã chứng kiến như sau:

Trong ngày 27.8.1987 các Quyết đoàn của Mặt Trận đi qua đất Lào đã bị Cộng quân truy đuổi rất gắt, nhiều chiến sĩ đã bị ngả gục. Cánh tay của Tướng Minh bị thương tuần trước sưng vù lên, rất đau đớn. Sáng ngày 28.8.1987, vào khoảng 8 giờ, khi đoàn quân băng qua một con suối thì bị địch phục kích. Tướng Minh liền ra lệnh cho Dân Đoàn Cận Vệ gồm các anh Đỗ Bạch Thố và Trần Đế, tháo chạy ngược hướng với ông.

Vào lúc 10 giờ sáng ngày 28.8.1987, khi thấy không còn chịu đựng nổi trọng pháo của địch, Tướng Minh đã rút súng Browning 3,2mm ra và dùng cánh tay trái bóp cò vào mang tai tự sát để khỏi bị lọt vào tay địch. Bốn chiến hữu khác gồm Khánh và 3 người nữa đến từ Hoa Kỳ là Huy, Hưng và Đẩu cũng rút súng tự sát theo.

Lời tường thuật nói trên của Nguyễn Tấn Phát đã được một số chiến hữu khác cùng tham gia chiến dịch Đông Tiến II như Đinh Văn Bé, Trần Đế, Đỗ Bạch Thố, Nam Trật Duột, Võ Kỳ Phát... xác nhận. Những sự hy sinh như vậy phải được trân trọng tưởng niệm và vinh danh. Chúng tôi không bao giờ nghĩ rằng một sự tưởng niệm đó có thể gây trở ngại cho việc đấu tranh chính trị của Đảng Việt Tân ở trong nước.

THAY ĐỔI LÀ CHUYỆN ĐƯƠNG NHIÊN

Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, nhiều người và tổ chức ở trong nước và hải ngoại đã hình thành các lực lượng để đấu tranh bằng quân sự với Việt Cộng.

Nhưng sau khi các chế độ cộng sản Đông Âu và Liên Sô sụp đổ, Hoa kỳ và các quốc gia Tây phương từ bỏ chiến tranh lạnh và đấu tranh bằng quân sự, đổi qua đấu tranh bằng chính trị và kinh tế, dùng chiến thuật “diễn biến hòa bình” để làm biến mất dần các chế độ cộng sản còn lại, Đài Loan và Nam Hàn là những nước chống cộng hàng đầu ở Đông Nam Á, đã đi theo Hoa Kỳ ngay.

Chỉ một số người Việt chống cộng ở hải ngoại là nhất quyết đi theo chiến lược và chiến thuật cũ. Khi lội ngược dòng như vậy, người Việt chống cộng chẳng những không tiến lên được chút nào mà cứ bị đẩy lui dần: Mỹ tái lập bang giao với kẻ cựu thù là CSVN, ký hiệp ước thương mại với CSVN, mở đường cho Việt Nam vào tổ chức Mậu Dịch Quốc Tế (WTO) và còn muốn tiến tới ký hiệp ước quân sự với CSVN.

Trước tình hình như vậy, Mặt Trận hay Đảng Việt Tân, một tổ chức chính trị có thực lực nhất của người Việt hải ngoại hiện nay, cũng nghĩ rằng không còn con đường nào khác là thay đổi chiến lược và chiến thuật để có thể nương theo chiến lược và chiến thuật của Hoa Kỳ và các nước Tây Phương để tiến lên, như Đài Loan và Nam Hàn đã làm.

Thay đổi phải được coi là chuyện đương nhiên. Vấn đề được đặt ra là liệu Mặt Trận hay Đảng Việt Tân có khả năng làm được chuyện đó hay không, hay lại bị rơi vào mạng lưới của địch như cuộc đấu tranh quân sự?

Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng tôi xin duyệt lại kế hoạch đấu tranh quân sự của Mặt Trận và nguyên nhân thất bại của kế hoạch này để rút bài học kinh nghiệm cho cuộc đấu tranh chính trị hiện nay.

THẤT BẠI CỦA ĐẤU TRANH QUÂN SỰ


Tướng Dương Văn Tư (Trái),
Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh (giữa),
 và Tư Lịnh Lực Lượng Võ Trang Chiến Việt Nam,
Tướng Đặng Quốc Hiền tức Lê Hồng (phải),
trong khu chiến Mặt Trận.
Ảnh nguồn: Hồi Ký Kháng Chiến
Hành Trình Người Đi Cứu Nước.
Cá nhân Phạm Hoàng Tùng chúng tôi
đưa hình vào bài viết này
 để minh họa sự kiện.

Chúng tôi đã tường thuật nhiều lần về sự hình thành và tổ chức của Mặt Trận. Ở đây chúng tôi chỉ ghi lại chiến thuật đấu tranh bằng quân sự của Mặt Trận và tìm hiểu tại sao nó đã thất bại.

Trong cuốn “Hồi Ký Kháng Chiến” nói về “Bí Mật Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh” sẽ được xuất bản trong thời gian gần đây, anh Phạm Hoàng Tùng, một kháng chiến quân của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, đã kể lại những điều mắt thấy tai nghe về “KHU CHIẾN HOÀNG CƠ MINH” và ba chiến dịch Đông Tiến đã được thực hiện để xâm nhập vào Việt Nam, trong đó đã mô tả lại khá rõ về “Khu Chiến Hoàng Cơ Minh”.

Đọc phần này, chúng ta sẽ thấy được cách tổ chức đấu tranh quân sự của Mặt Trận. Câu chuyện chuẩn bị cho chiến dịch Đông Tiến I tại Khu Chiến đã được anh Phạm Hoàng Tùng kể lại đại khái như sau:

1.- Câu chuyện trong Khu Chiến: Địa bàn khu chiến Hoàng Cơ Minh thuộc tỉnh U Bon Rat Cha Tha Ni, Thái Lan. Đây là một tỉnh miền Đông Thái nằm sát với biên giới Lào. Tỉnh lỵ của U Bon Ra Cha Tha Ni nằm ở Bắc vĩ tuyến 15. Từ U Bon, ngó qua biên giới phía Đông là vùng đất bao gồm 4 tỉnh miền Nam Lào: Xa La Van, Sê Koông, Cham Pa Xắc và An Ta Pư...

Lúc đó tại khu chiến có 4 Quyết Đoàn võ trang kháng chiến. Một Quyết Đoàn đủ quân số có khoảng 40 kháng chiến quân, được chia thành 3 Dân Đoàn, mỗi Dân Đoàn có 12 kháng chiến quân. Bộ Chỉ Huy Quyết Đoàn có 5 chiến hữu. Chiến Dịch Đông Tiến I được tiến hành vào gần cuối mùa mưa năm 1985, và Quyết Đoàn 7685 được chọn để thi hành nhiệm vụ lịch sử này.

Những kháng chiến quân được chọn tham gia chiến dịch đang công tác tại các đơn vị khác nhau trong khu chiến, nên đã được bố trí về Quyết Đoàn 7685 để luyện tập di hành trên nhiều địa hình nhằm thử thách thêm sự chịu đựng. Ngoài ra còn tham dự học hành chính trị, sinh hoạt với các chiến hữu đồng đội trong Toàn hay Dân Đoàn, qua khung cảnh tinh thần sôi nổi chuẩn bị lên đường nhập Việt. Cạnh đó, các chiến hữu chỉ huy các đơn vị cơ bản của Quyết Đoàn được tái tổ chức, cho phù hợp với nhiệm vụ sắp tới.

Một công tác chính trị quan trọng khác được tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị này là mở đợt kết nạp đảng viên Đảng Việt Tân. Hầu như tất cả các kháng chiến quân tham dự chiến dịch Đông Tiến I đều được kết nạp. Đây cũng là bước khởi đầu của cuộc vận động kết nạp các kháng chiến quân trong khu chiến vào Đảng Việt Tân...

Vào gần cuối mùa mưa 1985, chiến hữu Dương Văn Tư, Tư Lịnh Phó Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến, được coi như là vị chỉ huy quân sự cao cấp nhất tại khu chiến, vì chiến hữu Lê Hồng đã qua đời trong khu chiến vào giữa năm 1985. Chiến hữu Dương Văn Tư đã được lãnh đạo MT bổ nhiệm làm Tư Lịnh tối cao của chiến dịch Đông Tiến I.

Sở dĩ chiến hữu Dương Văn Tư được chọn làm Tư Lịnh, thống lĩnh toàn bộ chiến dịch xâm nhập Việt Nam và xây dựng khu chiến quốc nội cho MT, là vì các lãnh đạo MT đã khảo sát và biết ông là nhân vật có khá nhiều kinh nghiệm quân sự trong chiến tranh Việt Nam trước đây, đồng thời có uy tín lãnh đạo cao qua việc điều hành các đơn vị võ trang tân lập trong môi trường cách mạng. Và chừng mực nào đó, ông Tư có uy tín ít nhiều trong giới quân nhân VNCH.

Chiến hữu Huỳnh Trọng Hà, cựu sĩ quan Biệt Động Quân, đã định cư tại Nhật nhưng tình nguyện về khu chiến tham gia kháng chiến và được cử làm Chỉ Huy Trưởng Quyết Đoàn 7685. Anh Hà khi về khu chiến cũng trải qua những ngày tháng huấn luyện đầu tiên như những kháng chiến quân khác.

Những ngày chuẩn bị cho Đông Tiến I, tôi thấy anh Hà thỉnh thoảng đến căn cứ 27 nhận chỉ thị từ chiến hữu Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh. Lần cuối tôi gặp anh Hà tại căn cứ 27, với bộ đồ kaki cũ, có màu xanh của loại quần áo jean, áo dài tay, chân mang bata, đầu đội nón lưỡi trai cũng màu xanh.

Đứng từ xa thấy anh Hà, tôi mường tượng đến dáng dấp chiến hữu Lê Hồng, Tư Lịnh Lực Lượng Võ Trang trước đây. Hai người có tướng dáng tựa nhau, nhưng anh Huỳnh Trọng Hà hơi cao hơn anh Lê Hồng một chút. 

Bên cạnh việc chuẩn bị về điều phối nhân sự, tại căn cứ 84, các hoạt động liên hệ cho công tác này cũng rộ lên. Một số kháng chiến quân được phân công chế biến các loại thực phẩm khô, dùng lâu ngày trong rừng núi, như nước mắm nấu cho cô, đặc lại thành từng cục và bỏ vào các chai, lọ nhỏ, để ăn với cơm.

Thịt gà làm xong, xương và ít bộ phận khác được ăn trước, sau đó phần lớn thịt còn lại được xào mặn, sấy khô, ép kín trong các bọc nylon hay chai nhỏ bằng nhựa thật nhẹ, dùng làm thực phẩm ăn lâu ngày. Muối, ớt rang khô được cất giữ trong bọc nylon. Các túi gia vị có trong những gói mì ăn liền của Thái, được trút ra, gom trữ lại trong các bọc nilon, nhỏ gọn nhẹ.

Qua kinh nghiệm di hành trong địa hình rừng núi ở khu chiến, các loại lương thực, thực phẩm, gia vị... đều phải làm khô, mặn, gọn nhẹ, trữ lâu ngày được, để tiện lợi cho kháng chiến quân khi di chuyển dài ngày, trong điều kiện rất khó có tiếp tế, đồng thời phải có bổ dưỡng, ít bị hư hỏng.

Vài kháng chiến quân có khiếu may mặc, nhận nhiệm vụ gấp rút hoàn thành nhiều ba lô màu nâu đất, không lớn không nhỏ quá, mặt trong ba lô có may dính lá cờ vàng ba sọc đỏ. Võng nằm được đặt mua ngoài Thái, được may sửa lại cho chắc chắn, không rộng, không hẹp, thêm một tấm mùng ny-lông nhỏ tránh muỗi, phủ bên ngoài võng, nhằm bảo đảm sức khỏe cho kháng chiến quân.

Các thỏi vàng được nấu, chế lại thành từng khoen hay cục nhỏ dễ giấu cất. Đây là tài nguyên quan trọng của đoàn quân đã rời căn cứ thân thương nơi rừng núi xứ người để trở về đất mẹ. Vàng dùng để mua lương thực trên đường di chuyển hay làm phát triển kế hoạch kháng chiến tại khu chiến ở Việt Nam cũng như mua súng đạn, lương thực, các trang bị cần thiết cho cuộc đấu tranh sẽ phát sinh từ nhu cầu mới, chuẩn bị các lớp huấn luyện các tân kháng chiến quân tại nội địa...

Trong thời gian sửa soạn cho chiến dịch, chiến hữu Trương Văn Lên, một thanh niên trẻ quê ở Cambodia, trước đây sống bằng nghề thợ bạc, được phân công về căn cứ 84 làm nhiệm vụ nấu vàng, chế biến lại theo nhu cầu MT. Việc đưa anh Trương Văn Lên về căn cứ 84 công tác, mặc dù bảo mật, nhưng không qua các cặp mắt tò mò của một số kháng chiến quân trong khu chiến. Phải chăng đây là nguyên nhân dẫn đến các hậu quả tai hại sau này, khi đoàn quân rời khu chiến?

Những ngày trước khi khai diễn chiến dịch Đông Tiến I, tôi tham dự công tác đi tải từ căn cứ 84 tới 27, thỉnh thoảng có thấy Dân Đoàn chiến hữu Lâm Thao thực tập thêm về di hành có mang nặng. Tôi thấy anh Lâm Thao bước đi không bình thường, chậm hơn các anh em khác, gương mặt đổ đầy mồ hôi, mệt nhọc, nhưng anh vẫn kiên nhẫn luyện tập. Chân anh Lâm Thao bị thương từ những ngày còn cuộc chiến Việt Nam. Tuy chậm nhưng anh vẫn có khả năng di hành trong địa hình rừng núi.

Từ những ngày được chọn đi học trong khóa kháng quản, tôi có nghe chiến hữu Chủ Tịch MT đưa ra một so sánh lý thú đầy ấn tượng, về hình ảnh đi cứu nước của anh em kháng chiến quân, với hành động anh hùng của tráng sĩ Kinh Kha giã từ Thái Tử Đan ở nước Yên, qua sông Dịch Thủy diệt bạo chúa Tần Thủy Hoàng.

Chiến hữu Chủ Tịch cho rằng lòng yêu nước cùng hành động dấn thân can đảm lên đường của anh em kháng chiến quân đi diệt chế độ bạo quyền Hà Nội, còn quả cảm, xứng mặt trượng phu, đáng ngợi khen hơn tráng sĩ Kinh Kha cuối thời Đông Chu Liệt Quốc bên Tàu, cách đây hơn 2.000 năm...

2.- Một vài nhận xét: Qua một số câu chuyện anh Phạm Hoàng Tùng kể lại trong cuốn hồi ký sắp xuất bản và một số sự kiện khác, chúng ta có thể nhận ra rằng sở dĩ Mặt Trận đã thất bại nặng trong cuộc đấu tranh quân sự vì các lý do sau đây:

Lý do thứ nhất: Mặt Trận chưa thành lập được các cơ sở hạ tầng ở trong nước để nắm vững tình hình và chuẩn bị cho việc đón nhận lực lượng từ ngoại quốc xâm nhập, nhưng vì sự thúc bách của hải ngoại, nên đã vội đem quân về. Hành động như thế cũng chẳng khác gì chùm hai chân nhảy vào bóng tối. Chính quyền Kennedy cũng đã hành động như vậy khi đưa kháng chiến quân Cuba đổ bộ vào Bay of Pigs ngày 17.4.1961 và đã thất bại thê thảm. Mặt Trận không học được bài học lịch sử đó.

Lý do thứ hai: Không giữ được bí mật quân sự. Tuy những người lãnh đạo kháng chiến là những người có rất nhiều kinh nghiệm về quân sự trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng khi tổ chức xâm nhập vào Việt Nam, họ đã thông báo cho đối phương trước họ sẽ mở trận đánh, chiến thuật sẽ áp dụng, quân số, nơi phát xuất cuộc hành quân, ngày giờ sẽ lên đường... nên thua là chuyện đương nhiên.

Cộng quân chỉ cần đưa hai trung đoàn thiện chiến qua đóng ở biên giới Việt – Lào để đợi kháng chiến quân của Mặt Trận. Sau đó cho điệp viên tham gia kháng chiến quân của Mặt Trận để lấy tin tức. Các diễn biến trong Khu Chiến mà anh Phạm Hoàng Tùng vừa kể lại nói trên, địch đều biết. Ngày giờ kháng chiến quân lên đường, các lộ trình mà kháng chiến quân sẽ đi qua... địch đều nắm vững, thua là chuyện không thể tránh được.

Lý do thứ ba: Mặt Trận thiếu một hậu cần vững mạnh ở đàng sau nên dù có xâm nhập được, rồi cũng sẽ thất bại vì thiếu yểm trợ. Việt Cộng chống nổi Pháp và Mỹ là nhờ có Trung Cộng, một hậu cần to lớn và vô tận, đứng sát đàng sau lưng. Không có sự chiến thắng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc ở Trung Hoa năm 1949 sẽ không bao giờ có Điện Biên Phủ 1954 hay “Đại thắng mùa xuân” năm 1975.

Loạn quân Tamil ở Sri Lanka chiến đấu trường kỳ được với chính quyền của người Sinhalese từ 1983 đến nay là nhờ sự giúp đỡ của khối người Tamil Ấn Độ ở sát bên.

Phi Luật Tân không dẹp được Mặt trận Moro Islamic Liberation Front là vì mặt trận này có hậu cần là khối Hồi Giáo ở Malaysia và Indonesia, v.v. Còn Mặt Trận khi vào được trong nước, sẽ dựa vào hậu cần nào để có thể kéo dài cuộc chiến cho đến thắng lợi? Người Việt hải ngoại không thể làm hậu cần được vì tài lực quá yếu và ở quá xa.

Lý do thứ tư: Sự thay đổi chính sách của Hoa Kỳ. Khi còn đối đầu với CSVN, anh Hai ngầm yểm trợ người Việt hải ngoại quậy phá CSVN cả về quân sự lẫn chính trị. Nhưng khi quyết định bắt tay với CSVN, anh Hai bảo: “Chống lại quốc gia có quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ là tội hình sự đó. Chuyển qua đấu tranh chính trị đi mấy cha nội!”

CHUYỂN QUA ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ

Hết đấu tranh quân sự với CSVN, Mặt Trận nghe lời anh Hai, chuyển qua đấu tranh chính trị. Nhưng đấu tranh bằng cách nào?

Cách thứ nhất: Được Mỹ đưa về lãnh đạo quốc gia. Sự thật lịch sử nếu được nói ra sẽ làm nhiều người đau buồn, nhưng nếu không nói ra, nhiều người và tổ chức lại cứ tiếp tục đi theo đường cũ làm đất nước rối tung, nên tốt hơn cả là nói ra: Nghiên cứu hoạt động của các đảng phái quốc gia trong cuộc chiến Việt Nam từ 1947 đến 30.4.1975, chúng ta sẽ thấy đa số lãnh tụ các đảng phái này chỉ lo đi vận động để được Pháp rồi Mỹ đưa lên cầm quyền, chứ không hề có một kế hoạch xây dựng đất nước nào.

Chính quyền nào cho ghế thì ủng hộ để bảo vệ ghế, chính quyền nào không cho ghế thì chống phá, làm cho sụp đổ để được lên thay thế. Họ không có chính sách hay đường lối gì. Đường lối của họ khi cầm quyền là đường lối mà Pháp hay Mỹ đã vạch ra. Do đó, khi Pháp hay Mỹ thay đổi chính sách hay đường lối, họ không biết xoay trở cách nào, cứ múa rối lung tung đưa đến mất nước.

Quan sát hoạt động của Mặt Trận hay Đảng Việt Tân trong khoảng 15 năm trở lại đây, chúng tôi thấy Đảng này cũng đang đi vào con đường nói trên. Đảng này không đưa ra được một kế hoạch hay đường lối nào để xây dựng lực lượng quốc gia, mà chỉ cố gắng tạo ra “những ảo ảnh” về thế lực của mình với ước mong được chính phủ Hoa Kỳ quan tâm và đưa về lãnh đạo đất nước.

Không thấy được mục tiêu mà Đảng Việt Tân đang nhắm, nhiều người đã thắc mắc: Tại sao Đảng này cứ tìm cách đánh chiếm các tổ chức cộng đồng ở hải ngoại và “chôm credit” của các tổ chức khác, gây ra những xáo trộn liên tục? Câu trả lời rất đơn giản: Đảng này chỉ muốn tạo “ảo ảnh” về thế lực của mình ở hải ngoại để được Hoa Kỳ lựa chọn!

Nhưng Mỹ có những cơ quan nghiên cứu rất khoa học, họ biết ở hải ngoại có bao nhiêu phần trăm ủng hộ Việt Tân và khả năng của các cán bộ Việt Tân như thế nào. Người Mỹ không bao giờ nhìn vào những ảo ảnh. Vã lại, chuyện Mỹ đưa về cầm quyền như ngày xưa không còn xẩy ra nữa, xin đừng ảo tưởng.

Cách thứ hai: Chấp nhận “hòa giải hòa hợp” với Việt Cộng để được Việt Cộng chia ghế. Nhiều người tin rằng sau khi đợi mãi mà không thấy Hoa Kỳ đả động gì hết, các lãnh tụ Đảng Việt Tân quyết định quay về “hòa giải hòa hợp” với Việt Cộng để mong được chia ghế. Nhưng chúng tôi đã nói nhiều lần: Việt Cộng không bao giờ chịu “hòa giải hòa hợp” với Việt Tân hay bất cứ tổ chức đấu tranh nào của người Việt hải ngoại.

Trong hội nghị Genève 1954, Việt Minh chỉ nói chuyện với Pháp chứ không nói chuyện với chính phủ quốc gia và coi chính phủ này như một bộ phận của Pháp. Do đó, dù chính phủ Ngô Đình Diệm không chịu ký hiệp định Genève, hiệp định đó vẫn được đem ra áp dụng, chính phủ Ngô Đình Diệm không thể cưỡng lại được.

Trong hội nghi Paris, Hà Nội cũng không chịu nói chuyện với Sài Gòn mà chỉ nói chuyện với Washington. Hà Nội coi Sài Gòn ngang với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Mỹ cũng đồng ý như vậy và VNCH vì bị lệ thuộc quá nhiều, cũng phải đi theo Mỹ, không còn cách nào khác.

Lúc đó miền Nam có 17 triệu dân, có chính quyền với trên 1.200.000 quân có đầy đủ vũ khí tối tân... mà Hà Nội còn xấc láo như vậy. Việt Tân lấy tư cách gì để được Việt Cộng chấp nhận “hòa giải hòa hợp” và chia ghế trong chính quyền?

Chúng tôi đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính Trị Đảng CSVN là một văn kiện chiêu hồi chứ không phải là chính sách “hòa giải hòa hợp”.

Vậy Việt Tân định quy phục chế độ trong nước sao? Giả thiết Việt Tân có quy phục đi nữa, Việt Cộng cũng chẳng bao giờ chia ghế trong chính quyền cho. May lắm, Việt Cộng cho một vài ghế “đại biểu” trong quốc hội để làm bù nhìn đánh bóng cho chế độ mà thôi.

Cách thứ ba: Thực hiện một cuộc đảo chánh lật đổ chế độ cộng sản ở trong nước và thiết lập một chế độ dân chủ. Chắc chắn Đảng Việt Tân không đủ khả năng để làm điều này. Vã lại, các cường quốc Tây phương cũng không muốn như thế. Khi Fidel Castro lâm bệnh, rất nhiều người coi đây là cơ thực hiện một cuộc cách mạng để lật đổ chế độ cộng sản Cuba.

Nhưng bản tin ngày 7.8.2006 của đài VOA cho biết Ngoại Trưởng Condoleezza Rice đã tuyên bố: “Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ cho Cuba trong cuộc chuyển đổi sang dân chủ, nhưng không toan tính gây bất ổn trên đảo quốc này vào lúc Chủ Tịch Fidel Castro đang đau yếu.”

Cách thứ tư: Một mặt xây dựng cơ sở hạ tầng để chờ cơ hội đứng ra góp phần xây dựng đất nước, cả về chính trị, kinh tế lẫn giáo dục và văn hóa. Mặt khác, tiếp tục dùng diễn biến hòa bình” để đưa tới những thay đổi dần trên đất nước, chuyển hóa từ cộng sản sang dân chủ. Công việc này đòi hỏi một thời gian dài, có khi cả một hay hai thế hệ.

Các chính khách miền Nam nói chung, và các lãnh tụ Việt Tân nói riêng, đa số đã trên 60. Một số đã an phận, nhưng một số vẫn còn muốn một “chiếc ghế” nào đó trong chính quyền, nên rất nôn nóng và múa may lung tung, mặc dầu đó chỉ là ảo tưởng. Có “lãnh tụ” đã nói thẳng với chúng tôi: “Mình đã đi vào cuối đời, không thể chờ được nữa!”

Chúng ta khó mà tìm ra được một chính khách hay lãnh tụ của người Việt ở hải ngoại có tâm đạo, muốn xây dựng cho thế hệ đang tới để thế hệ này giải phóng và đưa đất nước đi lên. Đa số chỉ nghĩ đến mình và cái hư danh mà họ mong ước. Đó là điều bất hạnh cho đất nước.


Tú Gàn









Bài này cá nhân Phạm Hoàng Tùng chúng tôi trích từ diễn đàn liên mạng để bạn đọc blog có cái nhìn rõ thêm về Việt Tân.


ĐẢNG VIỆT TÂN:
HƯ THỰC CỦA VẤN ĐỀ
Ls. Hoàng Duy Hùng

ĐẢNG VIỆT TÂN:
HƯ THỰC CỦA VẤN ĐỀ

Ngày 19 tháng 9 năm 2004, tại Berlin nước Đức, Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, (viết tắt là Việt Tân) chính thức ra mắt với đồng hương.

Những nhân sự đầu não của Việt Tân không phải là những người xa lạ vì tất cả những nhân sự này đều là thành phần lãnh đạo của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (gọi tắt là Mặt Trận) của cố Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh hay của Liên Minh Việt Nam Tự Do như: Ông Lý Thái Hùng (Tổng Bí Thư) và phu nhân của ông ấy là bà Trần Diệu Chân (San Jose), Bs. Trần Đức Tường (Pháp), ông Nguyễn Ngọc Đức (Pháp), Bs. Nguyễn Trọng Việt (Nam Cali), v.v.

Nhìn vào thành phần nhân sự, người ta thấy rõ đây là sự thoái thai từ Mặt Trận sang đến Việt Tân.

Sự ra đời của Việt Tân cũng chính là điểm mốc để Mặt Trận được khai tử, để Mặt Trận "chạy làng" những "món nợ" tinh thần và vật chất mà Mặt Trận đã vay mượn với đồng hương.

Những món nợ đó như sau:

1/ Tuyên bố có 10 ngàn quân vũ trang ở biên thùy. Bây giờ 10 ngàn quân đó ở đâu, đang làm gì thì khó mà trả lời! Trước đây dùng vũ trang, bây giờ thay đổi thời thế, vay mượn tư tưởng và sách lược của Nhóm Thông Luận, muốn "hòa hợp hòa giải" với Cộng Sản nên, theo bà Trần Diệu Chân, là đấu tranh "tổng nổi dậy Hòa Bình".

Nếu còn thây ma "Mặt Trận" chình ình ra đó, khó có thể làm ăn khấm khá, nên đành phải ỡm ờ đánh lận con đen, thay đổi bình mới nhưng rượu cũ, để những ai chưa biết hoặc không có kinh nghiệm, bị sa cơ mắc bẩy.

2/ Mặt Trận đã phạm quá nhiều tội ác, buôn bán thuốc phiện, tình nghi giết người bịt miệng (cái chết của các ký giả Tú Rua, Đạm Phong v.v.), trốn thuế, v.v., đã từng bị chính phủ Hoa Kỳ truy tố 39 tội danh, vết nhơ còn đó, nên cái thây ma Mặt Trận càng lúc càng sình thối, không ngửi nổi, đến độ những cán bộ của Mặt Trận ra ngoài sinh hoạt không dám nhân danh là "Mặt Trận" nữa.

Thí Dụ, ông Xứ Bộ Trưởng Na Uy của Mặt Trận là ông Nguyễn Đức Thọ đã từng nói: "Không dám mang danh xưng Mặt Trận ra mà tổ chức tại vì quần chúng dị ứng." Có người hỏi lại: "Biết quần chúng dị ứng thế mà vẫn theo để làm gì? Biết bị mất chính nghĩa mà vẫn bám chặt là làm sao?" Ông Xứ Bộ Trưởng này im thin thít, quay đầu bỏ đi.

3/ Mặt Trận từng quyên rất nhiều tiền, nhiều triệu Mỹ Kim của đồng hương. Số tiền này không được kế toán rõ ràng. Một phần của số tiền này Mặt Trận làm kinh tài, mở các tiệm phở phở Hòa, Phở Công Lý), mua tàu đánh cá, bề ngoài thì chống Cộng nhưng bề trong thì đi đêm với Cộng Sản làm trung tâm chuyển tiền cho Việt Cộng, v.v., nên bay giờ khai tử Mặt Trận thì phủi tay khỏi phải trả lời với đồng hương những vấn đề này.

Tiền lời bằng kinh tài và tiền chia huê hồng bí mật làm tay sai cho Cộng Sản, Mặt Trận trả lương cho các cán bộ nên dầu biết là Mặt Trận mất chính nghĩa, các cán bộ còn lại vẫn bám chặt để còn "ăn". Nhưng, miếng ăn là miếng nhục và miếng ăn này là miếng ăn bán nước đáng bị lịch sử lên án nặng nề.

4/ Dối gạt đồng hương về số phận của cố Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh. Năm 1987, trong chiến dịch Đông Tiến I của Mặt Trận, Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đã tử trận trên đường xâm nhập về nước *. Báo chí ngoại quốc loan tin này, Mặt Trận lập tức phủ nhận và còn nói đây là tin vịt của Việt Cộng ngõ hầu làm hoang mang niềm tin vào lãnh đạo của quần chúng.

Mãi tới năm 1999, những cán bộ cao cấp như ông Phan Nam, Hoàng Thế Dân, Đỗ Hoàng Điềm, v.v., còn mạnh miệng tuyên bố trên các đài phát thanh đó là Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đang ở trong quốc nội lãnh đạo cuộc kháng chiến, nay mai sẽ ra chúc Tết đồng hương.

Tờ Kháng Chiến liên tục đăng những bài chúc Tết của "Chủ Tịch" Hoàng Cơ Minh ở trong nước, đăng những trận đụng độ quân sự với quân của Việt Cộng, nay đánh đồn La Ngà, mốt giật sấp cầu sông Dinh, kia phá đập Trị An, nọ vây đồn Gia Kiệm hoặc phục kích đoàn công voa của quân đội CSVN trên tuyến đường đi Bảo Lộc giết chết hàng trăm bộ đội Cộng quân!!!

Trước sự láo lếu khinh thường đồng hương này của Mặt Trận, nhiều người, trong đó có cá nhân tôi, đã lên tiếng vạch trần tội ác này của họ, Diễn Đàn Công Luận đã thành hình, Mặt Trận trốn chui trốn nhủi không đến tham dự, và rồi mấy năm sau, vì áp lực của quần chúng, Mặt Trận muối mặt làm lễ truy điệu cho cố Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh!!


Kháng Chiến Quân Việt Nam tập họp
trong rừng núi khu chiến
 khi tham dự buổi Lễ
Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị của Mặt Trận
 ngày 8/3/1982.
Ảnh nguồn: Hồi Ký Kháng Chiến
Hành Trình Người Đi Cứu Nước.
Cá nhân Phạm Hoàng Tùng chúng tôi
đưa hình vào bài viết này để minh họa sự kiện.

5/ Phủi tay trước cái chết của các chiến hữu trong các đợt Đông Tiến, đặc biệt là Đông Tiến II và III, cũng như phủi tay trước những hy sinh to lớn của những chiến hữu đã vì sự gian xảo của Mặt Trận mà phải ở tù dưới chế độ Cộng Sản, Mặt Trận đã không thăm nuôi tiếp tế cho họ. Ai cũng biết Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh hy sinh trong đợt Đông Tiến I năm 1987**, nhưng Mặt Trận nhân danh Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh còn sống, mãi tới năm 1991, vẫn tổ chức Đông Tiến II và Đông Tiến III*** để Cộng Sản giết hoặc bắt giam những chiến hữu này.

Ai đã có quyết định vô lương tâm như vậy nếu kẻ ấy không phải là một tay mất tính người hoặc là một tay tình báo cao cấp của Cộng Sản đã xâm nhập vào Mặt Trận, nắm lấy sinh tử phù của Mặt Trận, lèo lái Mặt Trận theo kế hoạch của Cộng Sản?

Nếu muốn biết những kẻ ấy là ai, xin hãy đọc bài của Người Thứ Chín viết về Lý Thái Hùng tức Bùi Minh Đoàn và ông Nguyễn Xuân Nghĩa từng mang bí danh là Đồng Sơn, cháu của cựu Tổng Bí Thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh.

6/ Chuyên cướp công các cá nhân và các hội đoàn trong các buổi tổ chức biểu tình, kiến nghị thư v.v., gây làn sóng phẫn nộ và bất mãn nơi quần chúng nên Mặt Trận đổi áo thành Việt Tân để dễ bề lừa gạt và thao túng hơn.

7/ Mặt Trận đã từng thậm thụt len lén có những hành vi tiếp tay cho Cộng Sản để nhuộm đỏ hải ngoại như phân phối lồng đèn trung thu nón cối ở Houston in hình các cháu thiếu nhi đi theo bộ đội nón cối dưới trăng đỏ có ghi hàng chữ "Vì các cháu thiếu nhi toàn dân ta kháng chiến" mà sau này Mặt Trận dày mặt tuyên bố đây là câu nói của "Hoàng Cơ Minh" chớ không phải của "Hồ Chí Minh".

Bị phản đối quá, Mặt Trận lại trâng tráo nói đây là khuyết điểm. 2 năm sau, khuyết điểm được lập lại ở Paris, Mặt Trận phân phối nón trung thu cờ đỏ sao vàng của Việt Cộng và rồi lại tuyên bố đây đó là một sơ sót!! Trong các cuộc biểu tình, Mặt Trận thả bồ câu trắng kêu gọi hòa bình. Ngày 30/4 là ngày tang thương thì Mặt Trận vận động tháng Tư Xanh hay Ngày Tự Do - Dân Chủ!!

Giỗ Tổ Hùng Vương trong tháng Tư Đen, chưa nắm chính quyền mà Mặt Trận đã lập Ngày Quốc Khánh. Chưa quốc gia nào lấy ngày giỗ ông bà làm "quốc khánh" cả, và văn hóa Việt Nam tối kỵ chuyện này, nhưng Mặt Trận tảng lờ coi như không có chuyện gì hết. Khai tử Mặt Trận để Việt Tân chính thức ra mặt chính sách hòa hợp hòa giải với Cộng Sản để khỏi mang tiếng là lén lút.

8/ Trước đây, Mặt Trận, qua các tổ chức ngoại vi như Liên Minh Việt Nam Tự Do, Phong Trào Phan Bội Châu hoặc Hội Chuyên Gia, xâm nhập lũng đoạn các cộng đồng, tìm bằng mọi cách nắm lấy cộng đồng để làm cái thế kèo nài chia ghế với Cộng Sản.

Ai không theo hoặc nằm trong vòng kiểm soát của Mặt Trận, Mặt Trận mở chiến dịch bôi lọ, vu khống, chụp mũ, hăm dọa, v.v. Địa phương nào mà Mặt Trận yếu thế, Mặt Trận xúi bẩy giật giây để tách ra làm 2 hoặc làm 3 cộng đồng trong một thành phố như đã xảy ra ở Houston, Atlanta, Nam California, Bắc California, v.v.

Quần chúng phẫn nộ tột đỉnh nên cởi quăng cái áo Mặt Trận thì chạy được cái tội này, mặc cái áo Việt Tân vào và những tổ chức ngoại vi mới như Mạng Lưới Tuổi Trẻ Lên Đường, những kẻ không theo dõi thời cuộc, sẽ bị mắc mưu, dùng danh xưng Việt Tân và các hội đoàn ngoại vi này, thống hợp các cộng đồng lại để làm cái thế nói chuyện với Cộng Sản theo chính sách thua keo này bày keo khác.

Năm 1999, tôi lên tiếng về cái chết của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và những tội ác của Mặt Trận, tôi có in quyển sách "Lột Mặt Nạ Mặt Trận Hậu Hoàng Cơ Minh" trong đó tôi có in lại làm bằng chứng một tài liệu của Liên Minh Việt Nam Tự Do, trong tài liệu này Liên Minh Việt Nam Tự Do ca ngợi ĐCSVN là một "thành phần" ưu tú của dân tộc trong tiến trình dân chủ, và một tài liệu của Liên Minh Việt Nam Tự Do xác nhận về Đảng Việt Tân như sau: "Việt Tân xác nhận tính toàn dân của cuộc cách mạng tháng 8 - 1945 và tính tự chủ của chính quyền được hình thành váo tháng 9 -1945."

Ai cũng biết ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh áp đặt một thể chế chính trị vô nhân nhất trên toàn cõi nước Việt, đây là ngày tang thương cho cả nước, nhưng, Đảng Việt Tân xác nhận "tính tự chủ của chính quyền" này thì đủ hiểu rõ ý định của họ công nhận thể chế Cộng Sản rồi, chỉ còn chia ghế chia quyền nữa mà thôi, TỨC LÀ, VÔ TÌNH HAY CỐ Ý, ĐẢNG VIỆT TÂN ĐANG ĐÓNG VAI TRÒ CÁNH TAY NỐI DÀI CỦA ĐCSVN MỘT CÁCH TINH VI VÀ KHÉO LÉO MÀ THÔI.

Khi ra mắt Đảng Việt Tân, các lãnh đạo của đảng này cho biết Việt Tân đã được thành lập 22 năm rồi, ở trong nước và ở hải ngoại. Một đảng đấu tranh 22 năm sau mới ra mắt đồng bào, quý vị có tin được hay không? Cũng chiêu bài bịp giống y như Mặt Trận ra mắt 10 ngàn quân vậy!!! 22 năm thành lập Việt Tân tức là 22 năm của Mặt Trận, bây giờ chỉ đổi áo mà thôi để cho hợp với chính sách đón gió trở cờ của Mặt Trận.

Ông Nguyễn Ngọc Đức, đại diện cho Việt Tân, đọc Chương Trình Hành Động gồm 11 điểm. Chương Trình Hành Động này chẳng có chút gì gọi là hành động cả, chỉ là nồi xúp tả pín lù mượn sách lược và tư tưởng hòa hợp hòa giải của Thông Luận nhưng dở hơn nhiều, cộng thêm ba cái dữ kiện lỉnh kỉnh góp nhặt từ một vài tổ chức khác và một vài tin tức thời sự như Việt Cộng bán đất bán biển cho Trung Cộng.

Đọc qua, thấy rõ Việt Tân không có lý thuyết gì cả nên "lý thuyết gia" Nguyễn Ngọc Đức rõ ràng đang làm một việc cha ông ta hay ví von là "gà què ăn quẩn cối xay." Nhận diện được điểm này nên trên diễn đàn mạng lưới, ông Quán Thế Sự đã đề nghị Mặt Trận - Việt Tân làm "phó" cho chú phỉnh Nguyễn Hữu Chánh vì dầu sao đi nữa chú phỉnh cũng có "lý thuyết gia" Cao Thế Dung soạn bài nên đọc cũng đỡ hơn nhiều.

Ở điểm 3 của Chương Trình Hành Động, ông Nguyễn Ngọc Đức la toáng lên là Việt Tân đấu tranh không để nắm chính quyền và sẵn sàng đặt dưới sự lãnh đạo của các đoàn thể khác. Thôi đi mấy ông Việt Tân ơi, đừng giả bộ chơi chiêu "tôi đang dọn cổ cho mấy ông ăn đây" để câu khách. Quá trình hơn 2 thập niên lường gạt và tham quyền cố vị của mấy ông không thua gì Cộng Sản là bằng chứng hùng hồn về mấy ông, nên, "đừng nghe những gì Việt Tân nói, hãy nhìn kỹ những gì Việt Tân làm."

Đây, phương hướng thứ mười của Việt Tân mà ông Nguyễn Ngọc Đức đọc sang sảng là "soi sáng sự thật lịch sử cận đại .." nhưng mà Mặt Trận và Việt Tân không dám soi sáng về sự thật cái chết của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, về số tiền nhiều triệu Mỹ Kim đã thu gom của đồng bào, về lý do nào biết Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đã chết mà vẫn đẩy chiến dịch Đông Tiến I và II để cho Cộng Sản bắt giết chết và giam nhiều người Quốc Gia, về cái chết của ký giả Đạm Phong, Tú Rua, v.v.!!!!!

Khi nào Việt Tân - Mặt Trận làm sáng tỏ điều này thì mấy ông mới kêu gọi làm sáng tỏ lịch sử cận đại để "xóa bỏ những ngộ nhận của quá khứ giữa các thành phần dân tộc, để tất cả cùng hướng về tương lai Việt Nam và đến với nhau bằng tình nghĩa đồng bào, bằng ý chí xây dựng đất nước." (sic!!)

Để thay cho lời kết, tôi xin mượn ý kiến của hai người trên diễn đàn điện tử, một của ông Quán Thế Sự và một của ông Đỗ Hoàng Gia:

Ông Quán Thế Sự: "Thằng em út Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng không đưa ra được cái gì mới, từ cương lĩnh đến chương trình hành động, chỉ nói toàn giọng điệu hòa giải hòa hợp, cóp nhặt mỗi nơi một ít và nhai đi nhai lại thứ đồ thiên hạ đã nha ra từ mấy đời, nhưng được cái là gương mặt nó không xấu xí, bẩn thỉu và có tiền án như thằng anh Mặt Trận."

Trong bài nhận định Việt Tân: Canh Bạc Bịp, ông Đỗ Hoàng Gia viết: "Hôm nay, 19/9/2004, các tay đánh bài bịp bằng lòng yêu nước của đồng bào tỵ nạn, mò đến sòng bạc Berlin, tung một canh bạc bịp mới.

Gọi là canh tân, thực ra, một trò siêu lừa mới, dựng 'con bài tẩy canh tân', để đón gió với cánh Việt Cộng xé rào ... Đối với bọn lưu manh chính trị trên, thì những cụm từ thiêng liêng như tổ quốc, dân tộc, nhân quyền, nhân phẩm, dân chủ .. chỉ là những con bài Đầm, Bồi, Già, Xì, Bạt, Cẩu.. Bọn đánh bài bịp canh tân coi tổ quốc, dân tộc như một canh xì phé.

Nói chung, chúng vô lương và vô luân ... Tôi lại phải thở dài nữa cho đất nước mình. Tôi đã bật khóc. Khóc cho đất nước. Khóc cho chính cái thằng tôi. Khóc cho con cái tôi. Hỡi tiền nhân, lịch sử đất nước mà các ngài để lại có tệ lắm đâu mà sản sinh cho thế hệ chúng con ra nhiều đứa đầu trộm đuôi cướp đến thế. Hỡi tiền nhân, khốn nạn chúng con nữa rồi."

Đúng vậy ông Đỗ Hoàng Gia ơi, vì:
Việt Tân, Việt Cộng, Việt gian,
Ba Việt cộng lại tan hoang nước nhà.

Houston ngày 29/9/2004.
Ls. Hoàng Duy Hùng

*,**,***: Mặt Trận từ tháng 7/1985 đã mở Chiến Dịch Đông Tiến I do Tướng Dương Văn Tư và chiến hữu Huỳnh Trọng Hà chỉ huy.

Tháng 7/1986 MT mở Chiến Dịch Đông Tiến II do đích thân Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh chỉ huy, tuy nhiên không vượt sông Mekong được nên trở lại đất Thái tạm trú quân. Một năm sau đó, đội hình Chiến Dịch Đông Tiến II lại khởi động vào tháng 7/1987.

Tháng 8/1989, MT cho tiến hành Chiến Dịch Đông Tiến III do chiến hữu Đào Bá Kế chỉ huy.

Chú thích trên đây của Phạm Hoàng Tùng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét