Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc.
Bài Hát Kính Tặng Anh Hùng Phi Công
Phạm Phú Quốc
Quân
Lực Việt Nam
Cộng Hòa
Đã Quên Thân Mình Vì Lý Tưởng Tự Do
Của Dân Tộc Việt.
Nguồn: youtube.
Người Ở Lại Charlie.
Bài Ca Kính Tặng Anh Hùng Nhảy Dù
Nguyễn Đình Bảo
Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa
Đã Quên Thân Mình Vì Lý Tưởng Tự Do
Của Dân Tộc Việt.
Nguồn: youtube.
TƯỞNG NHỚ CHA TÔI
ĐẠI ÚY TRƯƠNG HỒNG NHƠN
Darren Thăng
LTG: Ghi theo lời
kể trung thật của người con trai cố Đại Úy Địa Phương Quân Trương Hồng Nhơn.
Ông được vinh thăng đại úy đặc cách tại mặt trận Thủ Thừa, tỉnh Long An vào tuần
cuối cùng (ngày 23?) của tháng 4 năm 1975. Danh xưng “tôi” trong bài viết nầy
được hiểu là đương sự. Những dữ kiện và diễn tiến xẩy ra đều dựa trên trí nhớ
của tuổi thơ và từ thân nhân cho biết. Nếu như có điều gì sai lệnh, xin các cựu
quân nhân Địa Phương Quân từng là đồng đội với cha tôi bổ túc dùm. Trân trọng
đa tạ!
Đêm đã khuya, anh kể về đời binh nghiệp của thân phụ mình là
cố Đại Úy Địa Phương Quân Trương Hồng Nhơn với niềm tự hào kiêu hãnh. Nghe
giọng nói của anh mạch lạc, rõ ràng từng chữ một qua điện thoại viễn liên: “cha
tôi là một sĩ quan tác chiến của QLVNCH”, tôi rất hãnh diện về ông.
Hãy viết dùm tôi
câu chuyện có thật và ghi những công trận liên quan tới người, để lưu lại cho
con cháu của tôi mai sau hiểu biết. Hy vọng các cháu lớn lên tìm hiểu lịch sử
tại sao quốc gia Việt Nam
lại bị chia đôi đất nước từ năm 1954-1975. Hai miền Nam-Bắc theo đuổi chính thể
gì? Ai đã gây lên cảnh chiến tranh chết chóc tang thương? Nhận định chế độ nào
được coi là chính nghĩa và bạo quyền? Mầu cờ nào các cháu sẽ công nhận là đại
diện cho quốc gia Việt Nam
tự do, v.v.
Thật tình đã bao
năm trôi qua, tôi không thể nào quên được trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 xẩy ra
tại Dakto-Tân Cảnh, mạn bắc của cao nguyên Trung phần mà gia đình tôi đã vướng
vào vòng lửa đạn cho đến cuối năm 1987. Tổng thẩy là 15 năm trường sống trong
hệ lụy chiến tranh. Tôi lớn lên tại mảnh đất khó nghèo đó và đã chứng kiến
nhiều cảnh đau lòng. Trọn tuổi thơ của tôi, chìm đắm trong khổ đau bất hạnh như
bao thường dân vô tội khác tại quận lỵ nầy.
Thân phụ tôi,
Trương Hồng Nhơn quê quán ở quận Cần Đước, tỉnh Long An. Ông lập gia đình sớm
vào năm 21 tuổi. Thời thanh niên, ông làm Điểm Hóa Viên ở cảng Sàigòn. Theo
lệnh tổng động viên do nhu cầu chiến trường, ông ghi danh nhập ngũ thụ huấn tại
Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào cuối năm 1965 và mãn khoá vào đầu năm 1966 (có
lẽ khóa 22 hay 23) với cấp bậc chuẩn úy. Cha tôi nhận sự vụ lệnh đi trình diện
một đơn vị Địa Phương Quân ở tiểu khu Darlac và đóng ở ngoại ô của thị xã Ban Mê Thuột (nay gọi là Buôn Ma Thuột) từ
năm (1966-1970).
Sau tết
Mậu Thân 1968, cha tôi được cử đi học khóa hành quân “Rừng Núi Sình Lầy” ở
Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ kéo dài 6 tuần lễ (42 ngày). Ông may mắn có tên
trong danh sách khóa sinh do Tổng Cục Quân Huấn tuyển chọn, vì sĩ quan Địa
Phương Quân không thuộc đơn vị áp dụng chiến thuật phản du kích như các binh
chủng Biệt Động Quân, Lực Lượng Đặc Biệt
và Nhẩy Dù, v.v. nên ít khi có cơ hội.
Điều
nầy cũng dễ hiểu vì đơn vị Địa Phương Quân bị đánh giá là sắc lính yếu, ngay cả
cộng quân cũng nghĩ như vậy. Nhưng hãy khoan kết luận vội, quý vị sẽ tìm được
đáp số ở cuối bài viết để xem lực lượng nầy có dũng cảm trong trận chiến cuối
cùng, phá tan binh lực của cộng quân mưu toan chiếm quận Thủ Thừa, cắt Quốc Lộ
4 và áp sát thủ đô Sàigòn vào giữa tháng 4 năm 1975 (từ ngày 9-20?) hay không?
Năm 1970, cha tôi là Trung Úy Đại Đội
Trưởng Đại Đội 408 Địa Phương Quân (không biết thuộc tiểu đoàn ĐPQ nào?) của
tiểu khu Kontum. Đại Đội 408 Địa Phương Quân có nhiệm vụ trấn đóng ở các đồn chốt,
gìn giữ an ninh Quốc Lộ 14 (QL) là độc đạo duy nhất từ Kontum lên quận lỵ Dakto
(46 cây số), từ năm (1971 - 4/1972). Những tiền đồn heo hút trên Quốc Lộ 14,
như đồn Ngô Trang (Đại Đội 408 ĐPQ từng đóng ở đó), ấp Võ Định và xã Diên Bình
gợi lại trong trí nhớ tuổi thơ. Đến khi cộng quân khởi động chiến dịch Xuân-Hè
1972, thì cuộc sống của gia đình 3 người chúng tôi, bị đảo lộn toàn diện.
Ngày 15 tháng 4 năm 1972, Trung Đoàn 52 (Sư
Đoàn 302 CSBV) được sự yểm trợ của các trung đoàn pháo nặng (130
ly & hỏa tiển 122 ly), đánh biển người chọc thủng phòng tuyến Charlie do Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù VNCH trấn giữ một
cao độ xấp xỉ trên 900m từ ngày 2 tháng 4 năm 1972. Cao điểm Charlie là nút
chặn chiến lược quan trọng kiểm soát ngã ba Đông Dương, đường tiếp vận của CSBV
để xâm nhập vào tỉnh Kontum.
Vị trí khu vực đồi Charlie
giáp ranh với một nhánh sông Pôkô và Quốc Lộ 14. Đây là huyết mạch cửa ngõ dẫn
vào thị xã Tân Cảnh, cách đó khoảng 10km. Cộng sản mưu toan chia cắt Quốc Lộ
14, để dứt điểm phi trường Phượng Hoàng gần đó và bản doanh của Trung Đoàn 42 (Sư
Đoàn 22 Bộ Binh QLVNCH), thuộc tuyến phòng thủ ngoại vi của thị trấn Tân Cảnh
để làm chủ tình hình phía Bắc tỉnh Kontum.
Quận lỵ Dakto (Đắk Tô) và thị trấn Tân Cảnh bỗng dưng trở nên sôi động trong
chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Mặt Trận B3, như bao chiến dịch Dakto-Tân Cảnh 1967
và Dakto-Ben Het 1969 của những năm về trước. Thời điểm cuộc chiến leo thang
cực độ khi quân đội Hoa Kỳ còn tham chiến mạnh mẽ ở Việt Nam .
Khi tuyến
thép Charlie bị vỡ, Trung Úy Trương Hồng Nhơn nhận lệnh đưa Đại Đội 408
ĐPQ lên tăng phái cho chi khu Dakto. Đại đội đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá (có tác giả nói là
Trung Tá) Quận Trưởng Lò Văn Bảo, gốc người Thái ở Bắc-Việt. Thiếu Tá Bảo xuất
thân khóa 8 (Hoàng Thụy Đông) Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, vóc dáng người cao
lớn và đôi mắt quắc sắc, biểu lộ nghị lực quyết chiến. Trung Úy Nhơn dẫn theo vợ
con lên trên quận lỵ cùng với ông vì đời sống của người lính Địa Phương Quân,
thường gắn liền với gia đình của họ.
Thực ra, Dakto không xa lạ gì với gia đình
tôi cho lắm vì chúng tôi từng sống ở đó một thời gian. Ngày còn là nhi đồng,
mấy anh lính dưới quyền ba tôi hay bế ẵm tôi đi xin kẹo của lính Mỹ, khi họ có
dịp ghé qua địa danh nầy.
Tôi còn nhớ rõ mồn một biến cố xẩy ra tại quận Dakto vào chiều thứ
Bảy ngày 22 tháng 4, năm 1972, lúc đó tôi gần 7 tuổi. Ngày hôm ấy, cơn mưa
tháng tư tầm tã trút nước như xối và cộng quân lại nã pháo dữ dội ở khắp nơi
trong quận. Ngồi trong lô cốt nhìn ra ngoài trời mưa quan sát, binh sĩ trú phòng
chỉ thấy dân Thượng mặc áo mưa chạy lụp xụp lánh nạn tránh đạn pháo kích.
Nhưng chưa thấy dấu hiệu chiến xa cộng quân tiến
vô Dakto, cùng bộ binh tùng thiết.
(*a) Sau khi ba tôi đi tù cải tạo về,
kể rằng có nghe tiếng máy xe tăng vang vọng ở hướng tây bắc của quận lỵ vào ban
đêm, nhưng không thấy chiến xa xuất hiện. Chi khu Dakto tung nhiều toán trinh
sát Địa Phương Quân vào vùng dọ thám, cũng không đạt được kết quả gì. Thượng
tướng Đặng Vũ Hiệp (CS) giải thích trong “Ký Ức Tây Nguyên”, có 9 chiếc chiến xa T-54 đã ẩn mình ngụy trang trong khu vực ngầm của bờ sông Pôkô và bộ đội công binh mở đường
K50 băng cắt qua rừng. Chiến xa xuất phát vào tối 23/4 (Chủ Nhật), lướt qua chi
khu Dakto để tiến về hướng bản doanh của Trung Đoàn 42/SĐ 22 BB, gần Tân Cảnh. Đúng 4 giờ 30 rạng ngày 24/4 (thứ Hai), xe tăng cùng bộ đội tùng
thiết diệt các chốt điểm, yểm trợ cho nhau và càn qua các hàng rào của căn cứ. Dựa
theo dữ kiện nầy thì xe tăng địch không nhắm đánh chi khu Dakto.
Cha tôi đôn đốc binh sĩ chạy ngược chạy
xuôi bảo vệ bộ chỉ huy của Thiếu Tá Bảo, sợ đặc công mò vào dinh quận trưởng
tấn công. Lính tráng dưới quyền của cha tôi phòng thủ nghiêm ngặt khắp nơi. Cha
tôi phái một binh sĩ gùi (cõng) tôi sau lưng và lấy tấm poncho cột chặt tôi vào
người anh ta, để khi chạy loạn khỏi bị rớt. Mẹ tôi cầm giỏ quần áo đi đằng sau
toán lính. Thấy cha tôi bận rộn làm nhiệm vụ lại phải vừa chăm sóc cho vợ con,
bà nhận xét chồng mình khó có thể chu toàn trách nhiệm của người chỉ huy nên
xin tách ra riêng. Từ đó, mẹ con chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc với ông.
Mẹ con chúng tôi chạy theo đoàn người di
tản vào một nhà thờ ở trong quận lỵ ngay buổi tối 22/4 (thứ Bảy) hôm đó. Nghĩ
rằng nơi nầy là chốn tôn nghiêm, cộng quân không nỡ nào pháo kích vào nên trú
ẩn ở đây, chắc sẽ được an toàn. Sáng Chủ Nhật ngày 23 tháng 4, năm 1972, một
biến cố xẩy ra khi mẹ dẫn tôi ra ngoài khuôn viên nhà thờ hơi xa xa để đi vệ
sinh. Khi trở lại thấy nhà thờ đã bị
pháo địch dập nát, người dân vô tội chết nằm la liệt. Mẹ con chúng tôi đành
phải theo lớp người sống sót cuốn gói ra đi, tìm một nơi trú ẩn an toàn khác.
Hòa nhập vào dòng người di tản, bỏ nhà bỏ
của chạy lấy người. Đi bộ lần ra tới Quốc Lộ 14 được một ngày, nhóm thường dân cỡ
100 chừng người (Kinh và Thượng) gồm có hai mẹ con chúng tôi bị đám du kích địa
phương chặn lại. Chúng lùa tất cả mọi người, nam phụ lão ấu vào rừng. Thế là từ
nay thường dân vô tội của quận lỵ Dakto không nhanh chân chạy thoát được, đều
bị chúng bắt như cá chậu chim lồng. Đó là vào xế trưa thứ Hai ngày 24 tháng 4,
năm 1972.
Số lượng dân chúng của quận lỵ Dakto và các
xã lân cận bị cầm giữ trong vùng Việt Cộng vừa mới chiếm được cũng cỡ khoảng
5-6 ngàn người (kiểm chứng qua tài liệu của cộng sản nói là 6,000 người). Binh
sĩ VNCH và thanh niên trai tráng trong hạn tuổi quân dịch bị thanh lọc và bắt tách
ra riêng. Chúng bắt dân kê khai lý lịch, xem ai có thân nhân liên hệ đến “Ngụy
Quân Ngụy Quyền” hay không. May thay, trong đám người bị bắt chung không ai
biết rõ thân thế của hai mẹ con chúng tôi nên mẹ tôi dấu biệt lý lịch gia đình,
chỉ khai là thường dân mà thôi.
Thường dân gồm ông già bà lão, đàn bà và
con nít bị Việt Cộng xé lẻ ra từng nhóm nhỏ và sống sơ tán ở nhiều nơi. Có nhóm
thì 100, 200 hay 500 người một cho dễ bề kiểm soát. Họ đẩy tất cả mọi người vào
rừng rú hay mật khu của chúng, gần vùng tam biên giới Việt-Miên-Lào. Khó có thể
định hướng được các khu vực rừng núi nầy thuộc địa hạt nào. Cư dân địa phương,
thì đoán chừng vị trí nầy có lẽ chỉ chung quanh phạm vi của quận lỵ Dakto mà
thôi. Tuyệt nhiên không ai được phép sống trong thị trấn Dakto và Tân Cảnh, kể
cả bọn chúng nữa. Sau khi Dakto bị cộng quân cưỡng chiếm vào thứ Hai ngày 24
tháng 4, năm 1972, thì quận lỵ hoàn toàn bị bỏ trống 100%.
Mấy ngày đầu bị bắt, Việt Cộng cho mỗi người một vắt cơm lạt để ăn.
Sau đó du kích địa phương đi lùng những ruộng lúa hay các rẫy khoai mì (sắn) ở
buôn thượng bị bỏ hoang. Rồi dẫn dân
chúng đến đó vào ban đêm để nhổ. Trời tối như mực, dân chúng cứ cầm cây mì bứng
lên rồi tuốt bằng tay. Mỗi người thu nhặt một mớ khoai mì “chiếm lợi phẩm” mang
về xắt nhỏ ra, sấy cho khô để nấu ăn.
Nếu gặp được ruộng lúa thì Việt Cộng cho tuốt lúa. Người nào tuốt
được hơn một ký thóc là hay lắm rồi. Thóc lúa rang khô rồi giã bằng cùi để tách vỏ trấu và cám ra thành hột
gạo. Sau đó người ta dùng nắp vung nồi để rang gạo cho khô, cất dành để nấu ăn.
Nhưng thường thường thì gặp rẫy khoai mì nhiều hơn là ruộng lúa. Ngày nào cũng
ăn củ mì nên dân chúng chế biến đủ thứ món như mì luộc, canh khoai mì v.v. Nấu
củ mì bằng các nồi nhôm nhặt được trong các buôn thượng đấy. Đi đến các buôn thượng nào thấy thiếu cái gì
thì họ lượm cái đó mang theo để xử dụng.
Thiếu lương thực nên dân chúng đi hái rau tàu bay, rau sam, nấm rừng
(tùy loại ăn được), măng tre rừng, rau dớn rừng mọc dọc theo các khe suối ở môi
trường hoang dã, và cây môn thục(còn gọi là cây môn ngứa) ngâm vào nước gạo, để làm dưa chua tăng thêm phần ẩm
thực. Đó là chưa kể đến tình trạng bắt được con gì ở rừng già ăn được, là ăn
con nấy.
Gia vị thiếu
nghiêm trọng nhất trong việc nấu nướng chính là muối biển. Đôi khi Việt Cộng
chuyển đâu đó từ Lào sang một số muối hột. Phân phát 1/3 thìa cà phê cho hộ 1
người. Hai mẹ con của chúng tôi thì được một muỗng muối hột để ăn. Gia đình nào
đông thì được nhiều và gia đình nào ít thì được ít, nhưng không lúc nào cũng được
phân phát muối hột. Ăn phải cầm chừng kẻo hết muối để nấu ăn. Nói tóm lại,
không có muối ăn cũng chết mà ăn nhiều quá thì bị phù thủng.
Chốn rừng thiêng
nước độc, môi trường đầy muỗi mòng, vắt đốt, sốt rét lại không có thuốc men
chữa trị gây lên các bệnh dịch cúm, sởi, cộng thêm thiếu ăn, sinh ra đủ thứ
bệnh tật. Tội nghiệp nhất là đám con nít sơ sinh không có sữa để bú, thiếu vệ
sinh dinh dưỡng và bị sốt rét rừng nên chết rất nhiều. Có gia đình 5-6 đứa con nhỏ
đều chết hết ráo. Nói chung là người nào chết thì ráng chịu. Không ai còn nước
mắt hay lòng nhân ái để mủi lòng thương hại lẫn nhau nữa.
Thường dân lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Không có chòi, lều và
nhà sàn để ở gì cả. Nước uống, nấu nướng và tắm giặt bằng nước suối. Có thể nói
là hôm nay thì ở rừng nầy, mai thì ở rừng kia. Di chuyển lên đồi xuống núi
nhiều lần trong một ngày là chuyện thường tình. Di dời từ rừng nầy sang rừng
khác. Có lúc thì vào ban ngày nhưng đa số thì vào ban đêm để tránh phi pháo của
KLVNCH và Hoa Kỳ oanh tạc. Mỗi lần nghe tiếng động cơ máy bay trên trời, đám du
kích la toán lên:
- Chạy lẹ lên, kẻo máy bay “Ngụy” đến bỏ bom đánh phá ta.
Bất cứ ai mà chậm chạp chẳng hạn như đang lúc nấu nướng làm bếp,
chúng bèn tạt nước vào đống lửa bắt bỏ hết để ra đi. Quần áo mỗi người mang
theo trong giỏ lúc đi di tản chỉ có vài bộ đồ, thay mặc dần dần bắt đầu đã rách
rưới tả tơi. Vá được mảnh nào, chụm mảnh nọ hay xin được quần áo của ai đó thì
mặc đại để che thân. Tuy nhiên, không thấy cảnh người sống thiếu áo quần bèn
lấy quần lấy áo của người chết giặt lại để mặc cả.
Tôi nhớ mỗi lần đi tắm ở dưới suối, phải
vắt quần áo lên trên bụi cây phơi khô. Tắm cởi chuồng xong lấy quần áo đó mặc
lại. Quần áo mặc đa phần nhất y nhất quẩn một bộ đồ duy nhất. Đàn ông con trai
đi tắm thì dễ rồi, nhưng đàn bà con gái đi tắm mới khổ tấm thân. Họ rủ nhau
kiếm một chỗ kín đáo, canh chừng cho nhau tắm gội và giặt giũ. Không có xà bông
để tắm, dân chúng tùy cơ ứng biến kiếm đâu ra được vài trái bòn hòn vò vào nước
thay cho xà bông, để chà rửa thân thể.
Cuộc sống của thường dân quận lỵ Dakto bị
cộng sản kèm kẹp trong vùng “giải phóng” rất lầm than cơ
cực cứ quần quật như thế tính từ cuối tháng 4 năm 1972, cho đến khi Hiệp Định
Đình Chiến Ba Lê thực thi sau ngày 27 tháng 1, năm 1973. Vùng nào Việt Cộng
chiếm được trước đó, coi như thuộc quyền sở hữu của chúng.
Sau ngày đình chiến lịch sử đó, không ai
được phép trở lại thị trấn Dakto để sống nữa kể cả những người từng có nhà ở đó,
vì quận lỵ đã bị tàn phá bởi chiến tranh. Ban quân quản địa phương chia cho mỗi
gia đình một khoảnh đất nhỏ ở hai bên Quốc Lộ 14 để khai hoang lập nghiệp. Dân
chúng tự động kiếm cây rừng làm chòi, lợp tranh trát vách để ở. Người nầy giúp
đỡ người kia, dựng nhà đùm bọc lẫn nhau
để sống. Dân chúng làm rẫy canh tác như trồng lúa, trồng khoai lang, khoai mì
và hoa mầu tự tạo ra thực phẩm để sinh nhai.
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, khi miền Nam
hoàn toàn rơi vào tay cộng sản thì đời sống của người dân ở Dakto tương đối dễ
thở hơn lúc còn sống ở trong rừng núi một
chút (4/1972). Mẹ tôi dựng một sạp nhỏ trước căn chòi của mình để bán các thứ
lặt vặt như hành ớt, cá khô, mắm muối và bánh kẹo mua từ thị trấn Kontum lên, mong
được sống lây lất qua ngày.
Những trẻ em thiếu nhi trong lứa tuổi học
sinh được các anh chị lớn có trình độ, tình nguyện dậy các mẫu tự abc, học bản
cửu chương và chỉ cách thức làm toán cộng trừ nhân chia. Các chòi gọi là lớp
học được dựng lên đơn sơ, tạm bợ trên các mảnh đất trống trong khu vực kinh tế
mới. Tôi buộc phải học lại lớp 1 từ đầu vào năm 1973, tuy rằng đã học gần xong
lớp 2 trước đó.
Ngành giáo dục tại Dakto tương đối có tổ
chức hẳn hòi sau ngày đất nước thống nhất (sic). Tôi học hết cấp II, tức là lớp
9 (cấp lớp cao nhất ở Dakto), mãn trường vào hè năm 1982. Năm đó tôi tròn 17
tuổi (học trễ lắm rồi đó nghen). Muốn theo học trường trung học cấp
III (từ lớp 10-12) phải xuống thị trấn Kontum, cách huyện Dakto 46km, sống
trọ ở nhà người quen để đi học. Nhiều hôm nhớ mẹ (thèm bú tí một chút đó mà) và
mấy luống ruộng vườn không người trông coi, tôi cuốn gói bỏ học ngang trở về
Dakto, tính ở lại để phụ giúp mẹ lo việc đồng áng. Về đến nhà mẹ tôi khuyên
nhủ:
- Cha con là một sĩ quan của QLVNCH. Nay
ông bị đi cải tạo, con phải lấy tấm gương đó mà ráng học để nên người.
Mẹ tôi dọn cơm ra cho ăn uống no nê rồi đi nghỉ. Hôm sau tôi lủi thủi lần ra Quốc Lộ 14 để
đón xe đò trở lại thị trấn Kontum quyết tâm chăm chỉ học hành. Nhờ bền chí và cố gắng nên cuối cùng tôi xong
tốt nghiệp lớp 12 vào hè năm 1985.
Tôi thi đại học và được nhận vào Hệ Trung
Cấp Trường Cao Đẳng Kinh Tế - Kế Hoạch Đà Nẵng. Ngày đó, danh từ gọi là
Trường Trung Cấp Kế Hoạch II Kinh Tế (1985-1986). Chương trình dự trù học 3 năm
nhưng họ rút lại thành 2 năm, dự định sẽ tốt nghiệp vào mùa hè năm 1988. Trước
khi tốt nghiệp để đi thực tập, trường đòi hỏi mỗi học sinh 2 bìa thư có dán tem
ở nơi cư trú để kiểm tra hồ sơ lý lịch học sinh. Cuối năm 1987, ban giám thị
của trường thông báo cho tôi biết: “buộc đương sự thôi học, trả về địa phương
vì lý đó man khai lý lịch.” Không biết
ai đã thông báo lên trên huyện Dakto về lý lịch gia cảnh của tôi? Tôi đành thu
xếp đồ đạc để trở về Dakto, sống với mẹ vào cuối năm đó.
Mỗi độ tháng tư về, ký ức của tôi hay nhớ
lại cảnh tượng chạy loạn ở Dakto vào năm 1972. Giờ tôi hiểu ra tại sao thường
dân tại Dakto đều bị Việt Cộng lùa cả đám vào trong rừng. Họ bắt giữ dân ở lại
để tuyên truyền với thế giới là dân chúng bỏ bên quốc gia để về với phe cách
mạng. Đồng thời nếu như bị máy bay Hoa Kỳ và phi cơ KLVNCH oanh tạc trong lúc
hành quân, thì lấy dân ra làm bia đỡ đạn cho chúng. Cũng không hiểu sao, tôi
lại đọc được mưu đồ xảo quyệt của chúng như thế!
Có lẽ độc giả cho rằng tôi bịa chuyện để
nói lên. Nhưng nếu ai từng đọc qua bài viết, “Dakto - Đêm Cuối Cùng” của
tác giả Trang Y Hạ, chỉ biết được phần đầu tấn bi kịch khổ đau của thường dân
vô tôi tại quận lỵ Dakto mà thôi. Bài viết nầy là phần nối tiếp, nói về những đã gì xẩy ra sau đó.
Nhưng còn nhiều mẫu chuyện thương tâm đầy
máu và nước mắt mà tôi không thể nhớ rõ chi tiết để kể lại. Tôi cũng không muốn
dài dòng vụ Việt Cộng kèm kẹp dân chúng trong vùng Dakto bị
chiếm, e rằng sẽ lạc đề tài bài viết về thân phụ của mình. Tuy nhiên, tôi cũng
hy vọng rằng những ai là nhân chứng, từng sống qua thời kỳ kinh hoàng tại địa
danh nầy sẽ viết lên sự thật.
Đầu năm 1988, mẹ tôi rời thị trấn Dakto để về
Sàigòn sinh sống. Tôi thì theo chúng bạn đi các tỉnh khác như Đà Nẵng, Quy Nhơn
và Nha Trang để buôn bán và lập xí nghiệp sản xuất lạp xưởng. Chỉ khi nào về
Sàigòn mua vật liệu hay máy móc mới ghé thăm thân phụ đang sống tạm trú quản
thúc ở quận 4, sau khi đi tù cải tạo gần 10 năm. Hai cha con ít khi có cơ hội hàn huyên tâm sự
lâu dài, vì thời gian tôi lưu lại ở Sàigòn rất cấp bách, vả lại tôi không có hộ
khẩu chính thức để sống ở thành phố nầy. Tuy nhiên, đôi lần tôi có dịp hỏi ông
chi tiết về các diễn biến xẩy ra làm sao, sau lần gia đình phân ly vào tối ngày
thứ Bảy 22 tháng 4, năm 1972 tại Dakto.
Dựa theo tài liệu chiến tranh và qua lời ba
tôi kể lại, chi khu Dakto thất thủ vào thứ Hai ngày 24 tháng 4, năm 1972 (có tài
liệu nói là Chủ Nhật). Thiếu Tá Lò Văn Bảo chọn Đại Đội 408 ĐPQ làm đơn vị đánh
chặn (đoạn) hậu, rời chi khu sau cùng để cho bộ chỉ huy nhẹ của Thiếu Tá Bảo
rút lui an toàn vào rừng, nên bị tổn thất nặng nề. Đại Đội 408 ĐPQ cùng với bộ
chỉ huy nhẹ của Thiếu Tá Bảo đánh 7 ngày và 7 đêm với Việt Cộng trong rừng. Bộ
chỉ huy nhẹ của Thiếu Tá Bảo và Đại Đội 408 ĐPQ chia tay phân tán mỏng ở một
cánh rừng để tránh thiệt hại. Binh sĩ của Đại Đội 408 ĐPQ lớp chết lớp bị
thương, lại có người không thể mang theo được. Số khác thì thất tán hay bỏ ngũ
tìm đường về nhà nên cuối cùng đại đội ĐPQ chỉ còn lại độ mươi người.
Thiếu Tá Bảo dùng tần số riêng gọi vô tuyến
về bộ chỉ huy của tiểu khu Kontum và xin phái trực thăng tới bốc. Đại Đội 408 ĐPQ
hoàn toàn mất liên lạc với Thiếu Tá Bảo trong rừng núi vì ông ta đã đổi qua một
tần số khác. Có lẽ Thiếu Tá Bảo không hề hay biết những gì đã xẩy ra cho Đại
Đội 408 ĐPQ? Người hiệu thính viên của đại đội dò tần số nội bộ nhiều ngày mới
nối được liên lạc với Thiếu Tá Bảo và ông ra lệnh cho cha tôi đi chuyển đến một
ngọn đồi vô danh làm vị trí bãi đáp để được bốc. Khi thấy Đại Đội 408 ĐPQ còn
lại một ít người, ông nghi ngờ cha tôi đã bị Việt Cộng bắt và buộc hợp tác với
chúng giăng bẫy, để tóm gọn bộ chỉ huy nhẹ của ông ta. Thiếu Tá Bảo chất vấn
cha tôi đủ điều và nhất định không cho lên trực thăng. Giành co đôi lát, cuối
cùng ông mới đành lòng cho di tản về Kontum.
Cha
tôi dưỡng sức được ít ngày, rồi lại lao vào trận tuyến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 ở
Kontum (từ ngày 14/5 - 1/6/72). Sau chiến thắng mặt trận Kontum kiêu hùng,
nhiều quân nhân tác chiến được thăng một cấp, nhưng phần cha tôi vẫn tiếp tục
mang lon Trung Úy. Ông không hề than trách phận, chỉ nghĩ làm tròn bổn
phận của một quân nhân mà thôi. Sau trận nầy, thượng cấp đề nghị cha tôi nên
chuyển qua làm lính văn phòng, nhưng ông lại khước từ.
Đầu
năm 1974, cha tôi thuyên chuyển về tiểu khu Long An, KBC 4008. Đêm mồng 8 rạng 9
tháng 4, năm 1975, cộng quân mở màn pháo kích và tấn công vào thị xã Xuân Lộc,
tỉnh Long Khánh thì đồng thời Công Trường (Sư Đoàn) 5 Việt Cộng vượt rạch Cần
Đốt tấn công vào tỉnh Long An để cắt đứt Quốc Lộ 4, nối liền Sàigòn với miền
tây. Địch quân chiếm được một góc sân
bay, phía tây nam của phi trường Cần Đốt. Ngày giờ chúng toan tính thật trùng phùng
ăn khớp với nhau.
Đây là hai tuyến
phòng thủ cơ bản cuối cùng của QLVNCH, để phòng giữ cửa ngõ phía đông và phía
tây của Sàigòn. Nếu cộng quân chiếm được thị xã Xuân Lộc, thì các thị
xã (Biên Hòa - Bà Rịa -
Vũng Tàu) kế tiếp sẽ lần lượt xụp đổ và cuối cùng là thủ đô Sàigòn. Còn nếu
Việt Cộng chiếm được tỉnh Long An và cầu Bến Lức thì con đường tiếp vận
thực phẩm từ miền tây vào Sàigòn sẽ bị cắt đứt. Thủ đô Sàigòn sẽ bị cô lập và
loạn lạc nổi lên vì khan hiếm nhu yếu phẩm.
Theo nguồn
Wikipedia, Trận Xuân Lộc diễn biến ác liệt trong vòng 12 ngày đêm. Sư Đoàn 18
Bộ Binh QLVNCH cùng tiểu đoàn 3/4 Địa Phương Quân Long Khánh là chủ lực chính.
Tiểu khu còn được tăng phái thêm Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân(di tản từ Quảng Đức về), Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh và Sư Đoàn 3 Không Quân Biên
Hòa không yểm (tổng số quân khoảng 12,000 người), để đối phó với 4 sư đoàn
Bắc Việt gồm có (SĐ6, SĐ7, SĐ341, và SĐ325). Việt Cộng còn bổ xung thêm
một trung đoàn thiết giáp, một trung đoàn pháo binh và Trung Đoàn 95BB (Sư
Đoàn 325 CS) (tổng số quân khoảng 40,000 người), nên có nhiều dữ liệu bách
khoa toàn thư viết về trận chiến.
Riêng mặt trận Thủ Thừa,
tỉnh Long An cũng không kém phần quan trọng, nhưng bị lu mờ vì diễn biến xẩy ra
lại trùng phùng với thời gian của mặt trận Xuân Lộc, nên không có bách khoa
toàn thư dữ liệu. Đồng
thời cha tôi lại không hề kể chuyện là ông đã từng tham dự mặt trận nầy. Thật
là đáng tiếc, vì thiếu chi tiết dữ kiện có liên quan đến công trận của
ông.
Từ năm (1987-89) khi
trưởng thành, tôi có nghe gia đình bên nội kể loáng thoáng về trận đánh Thủ
Thừa. Sau đợt chiến thắng nhất thời của
VNCH tại mặt trận Thủ Thừa vào giữa tháng 4 năm 1975 (từ ngày 9-20?), một
ông chú thuộc vai vế em họ của cha tôi, chạy hớt hải qua nhà bà nội của tôi
thông báo một tin sốt dẻo:
-
Cô Năm ơi…đài
BBC, VOA và Sàigòn loan tin chiến thắng vang dội tại Thủ Thừa.
Bà
nội tôi lên tiếng lo lắng:
-
Hổng (không) biết anh Sáu (cha tôi là thứ năm trong nhà) bay, đi lính Địa
Phương Quân đóng tại chi khu Tân Trụ (Tiểu Khu Long An) đang đánh nhau ở miệt Thủ Thừa
(tăng cường
cho mặt trận), có hề hấn gì hông (không) nữa, mà sao mấy bữa rầy (nay) một con
mắt của tao cứ nháy lia lịa quá hà?
-
Có lẽ anh Sáu không sao đâu!, ông chú tôi trấn an tinh thần để bà nội tôi yên
tâm.
Vài
ngày sau đó có lính đến nhà nhắn tin. Bên nội tôi bèn xách vài giỏ thức ăn gồm
có xôi, thịt gà và trái cây đón xe đò đi lên chi khu Thủ Thừa để ăn mừng chiến
thắng cùng với cha tôi. Bên nội tôi mừng rỡ khi nghe Bộ Chỉ Huy của
Tiểu Khu Long An tuyên bố:
- Trương Hồng Nhơn được thăng Đại Úy đặc cách tại mặt trận
Thủ Thừa, tiểu khu Long An.
Bà nội của tôi còn kể rằng khi ra dìa (về) thấy xe đò
và đủ loại xe khác phải ngưng chạy trên Quốc Lộ 4 đến chiều tối vì đường xá bị
Việt Cộng đắp mô. Lực lượng Địa Phương Quân và một đơn vị thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh QLVNCH ra sức phản công
dữ dội và giải tỏa mô của Việt Cộng, mới bảo đảm được sự lưu thông trên quốc
lộ.
Sau ngày miền Nam mất, cha tôi đi tù cải tạo gần 10
năm qua các trại Hoàng Liên Sơn và cuối cùng là trại Cải Tạo Hàm Tân mang bí số
Z30D thuộc tỉnh Thuận Hải. Ông được phóng thích vào cuối năm 1984 và sống tạm
trú tại Sàigòn. Một trong những lý đó khiến ông bị đi tù
gần 10 năm (so với các sĩ quan cấp úy khác), chỉ vì khí khái hiên ngang của
ông. Cô tôi(người miền Nam
gọi chị hay em đều bằng cô), kể lại một chuyến đi thăm nuôi cha tôi như sau:
- Sáu à, em ráng cải tạo tiến bộ theo chính sách cách
mạng để mau về với gia đình nha!
Sao…chị nói xong chưa?, ông bực dọc:
- Nếu như chị lập lại lời lẽ “phục tòng” nầy với tui,
thì tui sẽ
bỏ vô lán ngay, cha tôi khẳng khái trả lời như thế.
Trương Hồng Nhơn bạo bệnh qua đời vào ngày 2 tháng 3,
năm 1988 sau Tết Nguyên Đán Mậu Thìn. Linh cữu an táng cử hành theo nghi thức
hỏa thiêu và hài cốt được mang về quê nhà ở quận (huyện) Cần Đước, tỉnh Long An.
Trước khi hoàn thành bài viết nầy, chúng tôi (tác giả &
tôi) có liên lạc với niên trưởng (danh hiệu 31) hiện đang định cư ở Hoa Kỳ, để
kiểm chứng dữ kiện có liên quan đến cha tôi. Cựu Thiếu Tá Trưởng Phòng Ba/Trung
Tâm Hành Quân BCH Tiểu Khu Long An (danh hiệu 31), trả lời qua e-mail như sau:
- “Cá nhân tôi nghĩ ông Nhơn là Đại Đội Trưởng hay Đại
Đội Phó một đại đội ĐPQ thuộc tiểu khu Long An, nhưng vì không trực tiếp chỉ
huy nên không nhớ được.”
Tôi xin số điện thoại để gọi cho niên trưởng(31) và tả
hình dáng cố Đại Úy Trương Hồng Nhơn có tầm vóc chiều cao trên 1.8 m(cỡ 6 ft), với
nước da ngăm đen và bản tính thích “nhậu” của người miền Nam, thì danh hiệu 31
cho biết:
- À, tôi nhớ ra đã từng gặp qua thân phụ của cậu rồi!
Danh hiệu 31 nói rằng ông cố gắng liên lạc với cựu Đại
Úy Võ Văn Bạch (ĐĐT), thuộc Tiểu Đoàn 334 ĐPQ (TK Long An). May ra ông nầy biết
rõ về cha tôi, nhưng tôi chờ tin mãi mà chẳng thấy ai gọi lại gì cả.
Cố Đại Úy Địa Phương Quân Trương Hồng Nhơn
nay đã quy tiên, nhưng tôi tin rằng ông cùng với dân quân Địa Phương Quân (2
tiểu đoàn ĐPQ gồm 600 lính) và 200 lính Nghĩa Quân của tiểu khu Long An (cộng
thêm một đơn vị của Sư
Đoàn 7 BB tăng cường?) đã anh dũng đánh
thắng một đơn vị xấp xỉ cấp
trung đoàn (Quốc Thái ghi lại *8) của Công Trường 5 (gồm
5 ngàn quân) (*b) và lực lượng du kích địa phương tại mặt trận
Thủ Thừa vào giữa tháng 4 năm 1975 (từ ngày 9-20?) (không kể CS điều động
thêm 2 Công Trường 6, 9 và Trung Đoàn Đồng Tháp công hãm Long An để tiến về
Sàigòn).
Trong hồi ký của danh hiệu 31 có viết,
“quân dân ta phải tự lực tự cường, kiểu đứng mũi chịu sào.” Ý ông ta muốn nói
rằng 2 tiểu đoàn Địa Phương Quân (TK Long An) và Nghĩa Quân chỉ được trang bị
M16, M79 và trung liên M60 mà phải đương đầu với cộng quân đông đảo hơn 8 lần (600 quân VNCH chống 5000+ bộ đội CSBV(*b)(cần dẫn
nguồn). Bắc quân lại được trang bị hỏa lực
mạnh như B40/B41, súng cối (cối 61, cối 82), đại liên phòng không 12.8 ly, trọng
pháo 130 ly và chiến xa lội nước PT-76, thì làm sao lực lượng Địa Phương Quân có
thể chống đỡ lâu dài được?
Là con của một quân nhân Việt Nam Cộng Hòa,
tôi muốn tìm hiểu về đời binh nghiệp của thân phụ mình là cố Đại Úy Địa Phương
Quân Trương Hồng Nhơn. Vì không biết cha tôi thuộc đại đội hay tiểu đoàn Địa
Phương Quân nào của tiểu khu Long An, nên chúng tôi (tác giả & tôi) cần kiểm
chứng dữ kiện, nhưng vài cựu sĩ quan ĐPQ liên đới biết lai lịch của cha tôi chẳng
màng giúp đỡ. Tôi cảm thấy thất vọng về họ.
Nhìn viễn ảnh thời gian trôi mãi và bánh xe lịch sử tiếp tục lăn về phía
trước sẽ xóa nhòa mất quá khứ. Nếu như không ai còn quan tâm tới, rồi tuổi trẻ Việt Nam sẽ dựa vào đâu để tìm ra sự
thật?
Tài liệu tham khảo:
1) Người ở Lại Charlie (Mùa Hè Đỏ Lửa 1972) - tác giả Phan Nhật Nam
2) Về Từ Tân Cảnh - tác giả Đại Tá Tôn Thất Hùng
3) Dakto - Đêm Cuối Cùng - tác giả Trang Y Hạ
4) Cao Nguyên: Sương Mù hay Khói Súng - tác giả Kiều Mỹ Duyên
5) Chiến Thắng Đakto - Tân Cảnh 40 năm một chặng đường -
Trang thông tin điện tử Huyện Đakto (CS)
Trang thông tin điện tử Huyện Đakto (CS)
6) Ký Ức Tây Nguyên
- tác giả Đặng Vũ Hiệp (CS) (*a)
7) Trận Xuân Lộc - Wikipidia tiếng Việt
8) Trận Đánh Cuối Cùng Của Địa Phương Quân
(Quận Thủ Thừa, Tỉnh Long An) - tác giả Quốc Thái
(Quận Thủ Thừa, Tỉnh Long An) - tác giả Quốc Thái
9) 31 Khúc Chấp & Quốc Thái Đinh Hùng Cường (2 tác giả)
10) “Giải phóng” Thủ Thừa và thị xã Tân An -
đòn chia cắt chiến lược lộ 4 trong chiến dịch HCM 1975 (CS)
đòn chia cắt chiến lược lộ 4 trong chiến dịch HCM 1975 (CS)
11) Tổng số quân của Công Trường 5 CSBV(*b),
dựa vào bài viết: “Tiểu Đoàn 83 Biệt Động Quân.”
Vài hàng về tác giả:
Darren Thăng còn có bút hiệu là DD-2nd
hay DD-2nd G. Quốc nạn năm
1975, anh chỉ là một thiếu niên. Anh khởi sự sáng tác từ năm 2007. Vì đam mê
đời lính chiến từ khi còn nhỏ, nên anh sáng tác rất mạnh về QLVNCH. Anh có hơn
30 tác phẩm nói về người lính Việt Nam Cộng Hòa, thương cảm số phận người Kháng
Chiến Quân Việt Nam sau 1975 và các bài tình cảm xã hội cũng như bình luận khác. Một bài thơ của anh: “Hãy Đợi Anh Về”, được Nhạc Sĩ/Ca Sĩ
Hoàng Hoa phổ nhạc trình bày trên You Tube nghe rất cảm động. http://www.youtube.com/watch?v=V3CwRDojxYQ . Trân thành cảm tạ độc giả xa gần thương mến
tác giả và tác phẩm.
CÁNH CHIM THẦN TƯỢNG
Darren Thăng
Cố Trung Tá
Khưu Văn Phát.
|
* Kính tặng Bà quả phụ cựu Trung Tá Khưu Văn Phát và gia quyến. Ghi
lại mẫu chuyện người hùng đã hiện hữu trong ta, mà không hay biết…
Ngẫu nhiên trùng hợp
vào các dịp lễ ở Mỹ, thì lại thấy các “quan lớn” của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa
âm thầm ra đi lặng lẽ như lá mùa Thu. Các ông chuẩn bị tâm linh chờ lệnh từ trên
xuống. Trời gọi đến tên ai thì người nấy dạ. Tất cả chấp hành nhận lãnh “chứng
chỉ giải ngũ” cuộc đời một cách bất đắc dzĩ để về chầu trời…
Ngày 22 tháng 1
năm 2007, cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng thất lộc ở Hoa Thịnh Đốn (tro của
Tướng Trưởng rải theo gió trên đỉnh đèo Hải Vân vào mùa hạ năm 2008). Đúng
một tuần sau ngày lễ mừng sinh nhật của Dr. Martin Luther King, Jr. Một nhà tranh đấu bất bạo động người Mỹ gốc
Phi Châu.
Ngày 23 tháng 6
năm 2007, cựu Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi qua đời ở thành phố Lancaster , Pennsylvania .
Giờ lại một tuần trước ngày lễ Độc Lập Fourth of July của Hoa Kỳ. Ngày 22 tháng
1 năm 2008, cựu Đại Tướng Cao Văn Viên từ trần ở Hoa Thịnh Đốn. Ngày này rơi đúng vào tuần lễ mừng sinh nhật
của Dr. Martin Luther King, Jr.
Ngày 26 tháng 11
năm 2008, một ngày trước lễ gà tây Thanksgiving ở Mỹ, cựu Thiếu Tướng Phạm Văn
Đổng đã mãn phần ở Pennsylvania .
Cùng ngày có cựu Trung Tá Khưu Văn Phát là Phi Đoàn Trưởng phi đoàn 215 Thần
Tượng của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã vĩnh viễn “giã từ đời bay bổng” ở Arlington,
Virginia. Không biết tự dưng sao ngày “Thất Lộc” của các ông lại trùng phùng
với nhau đến thế?
Các ngài cứ tuần
tự “xoay tua” như vậy. Dần rồi chẳng còn mấy cựu viên chức tên tuổi của Chính
Phủ Việt Nam Cộng Hòa hiện diện nữa? Sự
ra đi của các ông là một mất mát to lớn đối với gia đình và nỗi lòng “hưu quạnh”,
cho các phu nhân ngày đêm nhung nhớ vấn vương (ngoại trừ bà Cao Văn Viên đã qua
đời).
Hình ảnh tiễn đưa
các cựu chiến binh lưu vong về lòng đất “người”, được cử hành long trọng qua
nghi lễ phủ kỳ lá cờ Việt Nam Cộng Hòa thân yêu lên trên cỗ quan tài của người
quá cố. Đây là một vinh dự cao quý mà ngay đến năm liệt tướng tuẫn tiết của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cũng không sao có được một nghi thức an táng long
trọng kính tiễn cuối cùng sau ngày Quốc Hận 30 tháng 4 năm 1975 ở Việt Nam.
Cựu Trung Tá Không
Quân Việt Nam Cộng Hòa Khưu Văn Phát được nói tới trong nhiều bút ký chiến
trường của đời phi công trực thăng thời chiến. Đặc biệt trong các tập hồi ký
của cựu Trung Úy Vĩnh Hiếu, là một phi công trực thăng võ trang của phi đoàn 215
Thần Tượng. Người đã từng lao mình với cánh chim sắt “ngao dzu” trên vòm trời
Tây Nguyên trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Sát
cánh dưới quyền chỉ huy của Phi Đoàn Phó là Thiếu Tá Khưu Văn Phát trong nhiều
phi vụ hiểm nghèo.
Cựu Trung Uý Vĩnh
Hiếu viết có “nét” và rất “hồn” với nhiều tác phẩm chiến trường. Có thể nói anh là cây viết “độc đáo” của phi
đoàn 215 Thần Tượng. Qua hồi ký, đôi lần anh có đề cập đến cương vị chỉ huy,
trách nhiệm và lòng thương mến của chiến hữu dành riêng cho cựu Trung Tá Khưu
Văn Phát.
Tây Nguyên khói lửa ngập
trời
Trực thăng Thần Tượng bay
vào hiểm nguy
Giờ người vĩnh viễn ra đi…
Nhớ thời chinh chiến ai
nào biết chăng?
Không quân Việt
Nam Cộng Hòa có nhiều danh hiệu phi đoàn thật lạ kỳ. Ngầu cũng có mà lã lướt
cũng có. Nào là các phi đoàn Thiên Lôi (524), Ó Đen (548) và Phi Hổ (516). Danh nào hiệu nấy và đánh giặc cũng chì. Nghe
tên không thôi cũng đủ “hớt hồn” đám cộng nô xâm lược hung tàn.
Nhưng cũng có danh
hiệu hơi tí hiệp khách giang hồ một chút. Như phi đoàn Lạc Long (229) mà các
hoa tiêu trực thăng phi đoàn, ví như con rồng thích ăn hột đậu phọng (lạc). Hay
“rồng lạc” chốn bồng “nai” tiên cảnh của nữ giới.
Còn phi đoàn Thần
Tượng ví như các chàng công tử “đẹp chai” hào hoa phong nhã của “nòng” em. Nhưng
thật ra huy hiệu lại là chú voi bạch tượng làm xiếc trong gánh xiệc. Mà các cô nữ sinh thời đó nghe qua danh xưng
này là thấy dzui tai và thích rồi! Điều
này quý vị có thể “kiểm trứng” với phu nhân, cựu phi công phi đoàn 215 Thần Tượng dzậy?
Phi đoàn 215 Thần
Tượng trực thuộc Không Đoàn 62 chiến thuật của sư đoàn II Không Quân Việt Nam
Cộng Hòa, đồn trú tại Nha Trang. Vùng
trách nhiệm gồm các thành phố miền duyên hải trung phần Việt Nam như Nha Trang,
Phan Thiết, Phù Cát, Qui Nhơn và Tuy Hòa. Nhưng đa số ngày đi biệt phái tác
chiến lại ở thành phố Pleiku, Kontum và Ban Mê Thuột, cùng các chiến trường đẫm
máu trong lịch sử chiến tranh Việt Nam như Charlie, Dakto và Tân Cảnh .v.v.
Những địa danh nầy
đã để lại ấn tích và nỗi kinh hoàng cho quân đội chính quy Bắc-Việt, lẫn tổn
thất không ít cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Trong đó biết bao tên tuổi của
các phi công khu trục, trực thăng võ trang và mê vô xạ thủ trực thăng đã âm
thầm ra đi vào vùng trời miên viễn …
Có lẽ một lần
trong chúng ta đã từng nghe qua nhạc phẩm bất hủ “Người Ở Lại Charlie” để nói
lên nỗi tiếc thương người anh hùng mũ đỏ tiểu đoàn trưởng 11 Nhảy Dù là cố Đại
Tá Nguyễn Đình Bảo. Với ông còn có gần 400 chiến sĩ Nhẩy Dù Việt Nam Cộng Hòa
đã ở lại vĩnh viễn trên ngọn đồi máu nầy.
Trong một phi vụ
tiếp tế cho căn cứ Hỏa Lực 6 vào giữa tháng 4 năm 1971, vị trí căn cứ này nằm ở
hướng Bắc đỉnh đồi Charlie, dọc theo rặng núi chập chùng Ngọc Linh (Kngok Kon
Kring) thuộc dãy Trường Sơn trên cao nguyên trung phần Việt Nam gần tam biên
giới Việt-Miên-Lào.
Trực thăng của
Thiếu Tá Khưu Văn Phát được rừng phòng không dầy đặc Bắc-Việt “nghinh tiếp hậu
hĩ”. Tiếng đại liên cao xạ 12.7 mm bắn nổ dòn ục ục “đùng” làm lủng sàn tàu máy
bay. Viên đạn đại liên kích thước bằng ngón tay giữa của người lớn, xuyên qua
bình xăng phụ đã gần hết nhiên liệu, chọc thủng lên trên trần tàu và bay ra
ngoài trời.
Thật hú hồn vì lửa
không bắt vào bộ phận máy, nếu có thì sẽ làm trực thăng nổ tung trên không
trung ngay tức khắc. Ông ráng lết trực thăng về đến phi trường Phượng Hoàng gần
Tân Cảnh. Phi hành đoàn may mắn thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Qua kinh
nghiệm đó, ông Thầy đã hướng dẫn nhiều hoa tiêu trẻ cách thức ứng phó trong các
phi vụ sau.
Là một phi công
trực thăng thời chiến, Trung Tá Khưu Văn Phát chứng kiến nhiều đồng đội của
mình đã ra đi như chiếc “lá vàng rơi”. Ngày 11 tháng 4 năm 1972, phi đoàn có nhiệm
vụ tiếp tế khẩu phần ăn nhà binh, nước uống và tải thương sau cùng cho tiểu
đoàn 11 Nhảy Dù ở ngọn đồi “máu” Charlie.
Một trực thăng của
phi đoàn Thần Tượng do Trung Úy Nguyễn Tường Vân lái bị bắn bốc khói cháy sau
khi vừa hoàn thành nhiệm vụ tiếp tế. Phi cơ đang cố gắng rời khỏi vùng giao
tranh một cách nhanh chóng. Thiếu Tá Phát (danh hiệu Charlie) đang bay chiếc
trực thăng chỉ huy trên cao độ 6.000 bộ (feet) ở một góc trời quan sát và hướng
dẫn Trung Úy Nguyễn Tường Vân (hoa tiêu tàu tiếp tế), hốt hoảng la lên trên tần
số:
- Tàu bạn đang bốc cháy… đáp ngay… đáp lài xuống ở triền đồi phía
dưới.
Charlie (danh hiệu Thiếu Tá Phát) trấn an
tức khắc:
- Đã có Hổ một (danh hiệu gunship trực thăng) cover, nghe rõ trả
lời.
Nhưng con tàu trực
thăng ngộ nạn sợ nguy hiểm, vì đang trong tầm tác xạ của phòng không địch đã
không còn nghe được lệnh nữa. Lửa đã phụt lớn mạnh và tàu bốc cháy dữ dội như
ngọn pháo bông. Trực thăng rơi nhanh xuống triền đồi và nổ bùng lên như quả bom
lửa. Lửa và khói quệt lại đen mù mịt cả một góc trời. Tất cả bốn nhân viên phi
hành đoàn đều tử nạn dưới con mắt của Thiếu Tá Phát và các bạn hoa tiêu trực
thăng võ trang đang có mặt trong vùng.
Trung Úy Nguyễn
Tường Vân, Thiếu Úy Trần Văn Long và hai mê vô xạ thủ trực thăng đã lặng lẽ ra
đi không tìm được xác rơi. Trung Úy Vân mới 23 tuổi đã để lại người vợ trẻ và
đứa con thơ đầu lòng vừa chào đời trong tiếc nuối. Chào vĩnh biệt các anh hùng
vô danh Không Quân Việt Nam Cộng Hòa một lần cuối!
Thế hệ làm trai
thời ly loạn trong chiến tranh Việt Nam là thế đấy! Ít người lính nào
trong đơn vị tác chiến mà sống thọ hơn 30 tuổi? Nếu không chết thì cũng bị
thương trên chiến trường. Kể như cựu Trung Tá Phát được coi là “may mắn” hơn
các cánh chim Thần Tượng khác đã hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam.
Năm 21 tuổi, Khưu
Văn Phát trở thành hoa tiêu trực thăng với cấp bậc Thiếu Úy. Năm 31 tuổi ông
được vinh thăng Trung Tá, chỉ huy trưởng phi đoàn 215 Thần Tượng. Ông đảm nhiệm
chức vụ này cho tới ngày mất nước 30 tháng 4 năm 1975. So với thế hệ trẻ hiện
nay, thì thế hệ của ông đã “ăn đứt” cơ, về ba điểm chính:
1) Trẻ Tuổi Chức Vụ Cao
2) Phong Cách Lãnh Đạo
3) Bổn Phận Trách Nhiệm
Hãy hãnh diện vì
chúng ta có các bậc cha ông hào hùng của dân tộc trong công cuộc bảo vệ chính
nghĩa miền Nam Việt Nam …
Trung Tá Khưu Văn
Phát rời quê hương cùng với các hoa tiêu phi đoàn bạn trên 3 chiếc trực thăng
vào xế trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975. Mọi người đều nhận thức rằng Hoa Kỳ đã
thực sự bỏ rơi Việt Nam .
Phi trường Tân Sơn Nhất gần như bỏ ngõ và cộng quân đang tiến sát đến bên ngoài
vòng đai phòng thủ .
Trực thăng võ
trang chỉ còn vài ba chiếc nguyên vẹn với một hỏa lực hạn hẹp và nhiên liệu
khan hiếm. So với lực lượng hùng hậu Cộng Sản Việt Nam đang hung hãn tiến chiếm Sài
Gòn, thì chẳng khác gì mang trứng đi “chọi” đá dzậy. Có lẽ sự hy sinh vì tổ
quốc trong lúc nầy không còn cần thiết nữa…
Trung Tá Phát dẫn
đầu hợp đoàn cất cánh trước, tất cả trực chỉ biển Nam Hải bay đi Côn Sơn, nơi
đang lánh nạn của một số thân nhân phi đoàn. Ba chiếc trực thăng không thể tìm
được hòn đảo nhỏ xíu nầy, trong lúc nhiên liệu đã cạn dần. May sao gặp được tàu
dầu “cứu tinh” của Anh Quốc đang chạy ngoài khơi hải phận Việt Nam .
Ba chiếc trực
thăng thả mọi người xuống chiếc tàu dầu trước khi bỏ rơi phi cơ ở ngoài biển, vì
boong tàu tải dầu không có chỗ đáp. Đó là phi vụ cuối cùng đời người phi công
ngày tan chiến của cựu Trung Tá Khưu Văn Phát. Hôm sau chính là ngày sinh nhật
thứ 33 của ông và cũng là ngày tang chung của đất nước…
Hơn 33 năm sau
trên đất nước Hoa Kỳ, người chiến sĩ lưu vong Khưu Văn Phát cũng ra đi …Ông bỏ
lại sau lưng cuộc đời “dang dở” và hoài bão chưa thành để về nơi an nghỉ ngàn
thu. Trong làn mây trắng xanh lững lờ trôi, có lẽ giờ đây cựu Trung Tá Khưu Văn
Phát đang bay về nước trời. Nơi đó chỉ có lòng từ bi, đại lượng và chan chứa
tình thương của Ngài…
Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đã bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời
Ru anh ngủ vùi
Mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi!
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đã bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời
Ru anh ngủ vùi
Mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi!
Tài liệu tham
khảo:
Mùa Hè Đỏ Lửa II- Người
ở Lại Charlie - tác giả Vĩnh Hiếu
Darren Thăng.
CÁI NÓN SẮT BÊN BỜ LAU SẬY
Darren Thăng
Hàng năm độ 1 tháng trước ngày 19-6, một số báo chí Việt Nam ở Mỹ Quốc
thường đăng thông báo tổ chức kỷ niệm ngày thành lập Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
tại các thành phố lớn, nơi có đông đảo người Việt định cư. Vào các năm đầu, nhiều cựu quân nhân còn trẻ
và sức khỏe đang sung mãn nên đa số hiện diện đầy đủ cả.
Nhưng những năm về sau thì thưa thớt đi dần. Mục thư mời có phần thay đổi, kèm theo hàng
kính mời quý đồng hương và hậu duệ bớt chút thời giờ, đến tham gia sinh
hoạt. Địa điểm tổ chức thường ở một nhà
hàng rộng lớn để tiện việc sắp xếp ẩm thực và có bục sân khấu cho tiết mục văn
nghệ văn gừng. Tất nhiên, vé ủng hộ phải
là: “$” cho mỗi đầu người để trang trải chi phí liên hoan và trả cát-xê cho ca
sĩ trình diễn.
Hiếm khi tổ chức vì mục đích bất vụ lợi. Nhưng vô tình sao năm đó, lại có buổi ca nhạc
ngoài trời miễn phí sau phần liên hoan ở nhà hàng vào lúc trưa. Vì hiếu kỳ, nên
hắn lặn lội đi tham dự ca nhạc ngoài trời lúc xế chiều. Dù nguyên ngày thứ Bẩy
tổ chức hôm ấy, trời tháng sáu mùa hè bỗng dưng lại có mưa gió rả rích và mây
giăng khắp nơi cả ngày. Bầu trời ảm đạm thật thê lương như tưởng: “Nhớ Về Anh”,
người chiến sĩ cộng hòa năm xưa đã khuất...
Nếu không đến tham dự buổi ca nhạc ngoài trời “Đêm Nhớ Về Anh”, thì không biết được năm nào đã thành lập Ngày
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19-6? Đôi khi
lại có dịp gặp gỡ vài cựu quân nhân là đồng đội hay thân nhân của các chiến sĩ
đã vị quốc vong thân trong cuộc chiến Việt Nam (1954 - 1975).
Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt
trên bờ lau sậy này
Bây giờ anh ở đâu, bây giờ anh ở đâu?
Còn trên đời này đang xông pha đèo cao dốc thẩm hay đã về bên kia, phương trời miên viễn chiêm bao...
Bây giờ anh ở đâu, bây giờ anh ở đâu?
Còn trên đời này đang xông pha đèo cao dốc thẩm hay đã về bên kia, phương trời miên viễn chiêm bao...
Chiến tranh Việt Nam
đã chấm dứt và lịch sử cũng sang trang… Có chăng chỉ còn lại bút ký chiến
trường in trên sách báo, DVD ca nhạc và các websites của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa mà thôi. Anh linh các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), đã bỏ
mình trong cuộc chiến 21 năm bi hùng rồi sẽ đi vào lãng quên …
Các cựu quân nhân từng vào sinh ra tử trên chiến trường còn sống
sót sau cuộc chiến, nay đã sức cùng lực kiệt vì già yếu và bịnh hoạn. Nhưng nhiều người vẫn đến tham dự hội ngộ đầy
đủ Lễ Tưởng Niệm Ngày Quân Lực 19-6 trọng đại năm nay, cho dù bất kể thời tiết
ra sao…
Họ là nguồn tài liệu “sống” thiết thực sẽ dựng lại quân sử, kiểm
chứng và bổ túc các dữ kiện thiếu sót trong các bút ký chiến trường đã
đăng ngõ hầu giúp ích cho thế hệ hậu duệ
hiểu biết vì sao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lại phải chống trả bọn cộng sản xâm
lăng phương Bắc, trong công cuộc bảo vệ chính nghĩa miền Nam thân yêu của chúng
ta…
Lúc 7g30 chiều tối ngày thứ Bẩy vào tuần
thứ 3 của tháng 6, tại một góc đường khu thương mại Việt Nam ở thành phố địa
phương, trong cơn gió lạnh mưa phùn, nơi
đây hắn đã gặp một cựu sĩ quan “bình thường” thuộc đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt (LLDB)
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ông mặc chỉnh tề bộ quân phục hoa dù mang nhiều huy hiệu của Sở
Công Tác Nha Kỹ Thuật/Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM),
đầu đội nón beret đỏ thêu insigna Cánh Dù, chân mang Boote d’ assault còn vương gót bụi
trần, nắp áo bên phải viết tên người.
Được biết người cựu sĩ quan nầy trước năm
1975, một thời cùng các đoàn Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật 11, 71 và 72 đồn trú tại
Sơn Trà, Đà Nẵng đã lập bao chiến công hiển hách âm thầm. Đây Khe Sanh gió mù, nhảy xuống phá các ống
dẫn dầu của địch.
Trực thăng bí mật thả toán vào mật khu Việt
Cộng quanh vùng I Chiến Thuật để bắt cóc các cán bộ cao cấp Bắc Việt. Nằm gai nếm mật, hành quân thám sát nội biên
sau hậu tuyến địch và lấy tin tức xác thực để khai thác v.v.
Những
lần được thăng chức và tưởng thưởng huy chương chiến công thì không thấy mấy…vì
đã có cấp trên hay binh chủng khác “nhận lãnh” dùm rồi. Vậy mà các anh vẫn không buồn khi đi thi hành
nhiệm vụ. Tất cả vì Tổ Quốc Việt Nam
thiêng liêng.
Để thỏa tính tò mò một thời ước mơ làm
người lính Việt Nam Cộng Hòa như các anh năm xưa, hắn bước lần tới ông đang
đứng hút thuốc lá để trò chuyện:
Chú có biết Đại Úy Hồ Đăng Nhựt thuộc Chiến Đoàn 2 đồn trú tại Kontum, Việt Nam vào cuối tháng 3 năm 1975?
- Hồ Đăng Nhựt chết rồi! (h.phải)
Ông trả lời giọng miền Trung nhẹ hơi chút xúc động.
- Hồ Đăng Nhựt xuất thân khóa 14 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức ra trường
năm 1963.
- Còn tao xuất thân khóa 17 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam - Đà Lạt ra trường năm
1963.
-
Tao với Nhựt và đào hắn thường đi chơi chung với nhau trước khi hắn thuyên
chuyển ra Nha Trang năm 1964.
- Cô ta tên
là: “Ngân” sau là vợ Nhựt, ông xác nhận.
Cháu đọc bút ký: “Em Không
Nhìn Được Xác Chàng”, do chính phu nhân Cố Thiếu Tá Hồ Đăng Nhựt kể
lại. Người sĩ quan bị tử thương cùng với
chồng cô ta là Thiếu Tá Hải?
Thiếu Tá Hải đây chính là: Nguyễn Khoát Hải, tự đoán đại?
- Đúng vậy!
Họ bị phục kích trên đường triệt thoái khỏi cao nguyên, theo liên tỉnh lộ 7B về Tuy Hòa và đã hy sinh vào
ngày 25 tháng 3 năm 1975.
Cố Trung Tá Nguyễn Khoát Hải.
Cố Trung Tá Nguyễn Khoát Hải.
Liên tỉnh lộ 7B cao nguyên 75
Quốc lộ máu nước mắt vơi đầy
Chiến trường đi chẳng tiếc tuổi(*) xanh
Áo bào thay chiếu anh nằm đất
(2 câu cuối, trích một đoạn thơ trong bài “Tây Tiến” của Quang
Dũng, (đời *)
Làm sao chú nắm được tin tức xác thực trong khi ấy chú vẫn còn ở Đà
Nẵng?
- Trời ơi ! Có chuyện gì mà
“tụi tao” không biết trong vòng 24 giờ, vì là Lực Lượng Đặc Biệt mà “mầy”.
- Vùng I Chiến Thuật sau đó cũng bị bỏ ngõ, vậy tình trạng của chú
và đồng đội ra sao?
- Các đoàn Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật /BTTM đồn trú tại Sơn Trà được
Giang Đoàn Vận Tải Trung Hạng của Trung Tá Nhàn “bốc” về Qui Nhơn ngày 29 tháng
3 năm 1975. Rồi về Cam Ranh và chặng
cuối là Sài Gòn vào ngày 1 tháng 4 năm 1975.
Khói thuốc vẫn thở phì phèo trên môi, ông bèn móc bóp ra để chứng
minh:
- Cho mầy coi đây là lính “thật” chứ không phải lính “kiểng” đâu
nhá, ông giơ ra:
1) Giấy Phép Lái Quân Xa.
2) Bằng Lái Quân Xa.
3) Chứng Chỉ Tại Ngũ có hiệu lực đến hết ngày 30 tháng 9 năm 1975.
Cả ba thẻ đều ép bọc nhựa tuy hơi cũ chút xíu theo thời gian, nhưng
vẫn còn giữ tốt lắm.
Nhìn hình Giấy Phép Lái Quân Xa, lúc đó ông còn rất trẻ và điển
trai.
Hắn đoán đại:
- Có lẽ năm đó chú khoảng 22 tuổi?
- Đúng rồi! Ông khoái chí
mỉm cười.
Ông bèn xòe cho coi hình Chứng Chỉ Tại Ngũ mặc áo lính dù ngày đó
xem có “oai” không?
- Liếc nhanh hình thấy đề tên: Th/Tá V.
Hắn nghĩ đây là thứ “dữ” thuộc Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật/BTTM của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Điều lý thú nhất trong vài phút đàm đạo là ông luôn xưng hô danh từ
“tao” và “mầy” với thế hệ trẻ hơn, tựa như đang nói chuyện với các chiến hữu
thân thương của ông năm nào làm đây cảm thấy dzui dzui…
Lúc đó, ông V thấy ban nhạc chơi bản nhạc ngoại quốc thể điệu
“Bebop” nên mời được cô đào “nhí” mặc bộ quân phục trắng Thủy Thủ của Việt Nam
Cộng Hòa trong ban nhạc hay thân hữu gì đó…Ra nhẩy trước bục sân khấu dàn dựng
ngoài trời, trông rất trữ tình.
Bàn tay ông đưa đào “thoăn thoắt”, đan lưới trước vòng sau lưng
thật điệu nghệ. Đôi chân lả lướt lượn
tới đi lui theo thứ tự lớp lang nhuần nhuyễn.
Có lẽ còn hơn cả nhóm trẻ mới “nhớn” đứng xem nữa? Ví phỏng thế hệ trẻ hơn, tụi tôi cũng không
thể sánh bằng? Mọi người nhìn trầm trồ
khen hay, vì chẳng có cặp nào ra nhẩy hết.
Khi kết thúc bản nhạc, ông “te” đào sát xuống đất y như “pro” kiểu
celebrity dancers trên TV vậy.
Nhìn thấy ông nhẩy đầm hay và còn phong độ, bỗng liên tưởng tới
thời xanh xuân xa xưa. Có lẽ ông từng là
tay nhẩy sành điệu nghệ thuật? Chắc
nhiều đào phải chết mê chết mệt đây?
Buổi ca nhạc ngoài trời tuy âm u ảm đạm vì thời tiết khắc nghiệt
nguyên ngày nhưng cảm nhận bầu không khí nơi đây cũng dzui dzui, vì thấy ông
còn quá “iêu” đời. Có lẽ ông đang muốn
sống lại một thời “chai chẻ” đã qua? Cho
trọn kiếp trai lãng tử “Lính Dù Lên
Điểm” mà em!
Ông V vội vã ra về chỉ vài ba phút trước khi Ca Sĩ Phương Hồng Quế
đến từ Nam California lên bục hát. Có lẽ
lúc đó ông còn luyến tiếc vấn vương sao “ngày vui qua mau” vì phải theo ý bà
nhà, kẻo người giận thì mất vui.
Lần đầu tiên đến nghe ca nhạc ngoài trời đã để lại cho chúng tôi
nhiều ấn tượng đẹp. Hy vọng sẽ gặp lại
ông trong dịp Lễ Tưởng Niệm Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19-6 và buổi ca
nhạc “Đêm Nhớ Về Anh”, vào năm sau…
Tự nhủ rằng nếu có lần sau thì hy vọng mọi người sẽ tham dự
đông đủ hơn và mang theo mình một cây đèn cầy nhỏ, để thắp lên khi trời xẩm
tối? Cùng nhau dâng một phút mặc niệm
kính tưởng anh linh các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã vị quốc vong
thân cho tự do. Cũng xin nguyện cầu cho
quê hương Việt Nam sớm thoát
khỏi ách thống trị độc tài của đảng Cộng Sản Việt Nam …
Buổi ca nhạc ngoài
trời “Đêm Nhớ Về Anh” chấm dứt vào lúc 10g30 tối. Mọi người lặng lẽ ra về trong nuối tiếc bâng
khuâng. Bước chân đi nặng trĩu dời gót
ra tới đầu đường. Nghe như có tiếng ễnh
ương kêu “rê…bit, rê…bit” thê lương, trong vũng nước lớn của mảnh đất bỏ trống
rậm rạp gần bờ sông thành phố. Vang vọng
từ CD đâu đó có tiếng hát tiếc thương:
Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt
trên bờ lau sậy này
Anh là ai? Anh là ai? Anh là ai?
Anh là ai? Anh là ai? Anh là ai?
CHINH NHÂN VÀ NGƯỜI TÌNH
LTG:
Ai từng đọc thiên hồi ký “Thép Đen” thì không thể bỏ qua chuyện tình của người biệt kích sở Bắc, đồng cảnh ngộ với Điệp Viên Đặng Chí Bình…
Darren Thăng
Tản bộ về nhà bố mẹ vợ sau nghi
thức rước dâu người con gái ông bà về nhà chồng độ dăm bước đường. Cầm nắm ổ khóa xoay chiều định mở cửa vào
nhà, nhưng cửa đã khóa chặt. Nhìn thoáng
qua tấm mành thưa đàng sau lớp kính của cánh cửa ra vào, thấy có khách hình như
là người Việt Nam
thì phải?
Quái lạ! Bố mẹ vợ của mình vừa mới dọn về vùng này độ
2 năm nay thôi, có thân bằng quyến thuộc hay bạn bè gần gũi chi đâu mà lại đến
vào dịp đám cưới con gái ông bà vậy? Người
mẹ vợ thấy bóng người thân đứng ngoài sân, bèn rời gót ghế sofa ra mở cửa cho
vào.
Bà lịch sự giới thiệu với tôi, đây
là ông bà Lân và ông bà bạn ở chung nhà cũng vừa mới đến định cư ở Mỹ. Vì quen biết sơ ở nhà thờ trong xóm nên mời
đến nhà chơi, nhân thể tham dự lễ vu quy của con gái mình hôm ấy. Đó là ngày thứ bảy, độ trung tuần tháng 7 năm
1994. Lần đầu tiên tôi gặp gỡ họ. Bốn ông bà người Bắc vui vẻ, cởi mở và bặt
thiệp. Có lẽ vì ái ngại nên không ai chịu đi tham dự tiệc cưới tối hôm đó, dù
được mời mọc.
Ông Lân tốt bụng tình nguyện trông
chừng nhà cửa cho bố mẹ vợ tôi, sợ trộm cắp vào nhà. Thấy ông đã luống tuổi,
nhưng còn gân nên tôi hỏi:
- Bác sẽ đối phó với đám trộm cắp
như thế nào?
Ông từ tốn trả lời:
- Tao là dân biệt kích, có ngán chi
ai!
Ám ảnh bởi câu nói đó, nên tôi có
nhiều thắc mắc về ông Lân? Người có một
giai thoại liên hệ đến nhóm biệt kích sở Bắc vào đầu thập niên 60, mà sau này
đọc qua hồi ký “Thép Đen” của Điệp Viên Đặng Chí Bình, tôi mới vỡ lẽ…
Ông Lân và 8 biệt kích quân toán
Boone được máy bay C-123 của đoàn Nghiên Cứu Quan Sát thuộc cơ quan tình báo
Hoa Kỳ (SOG), thả dù ra Bắc vào quá nửa đêm thứ ba rạng thứ tư ngày 29 tháng 7
năm 1964. Mục tiêu nhẩy trên quốc lộ 7,
hướng Tây-Bắc của huyện Con Cuông thuộc tỉnh Nghệ An. Nhiệm vụ của toán là thám
sát và báo cáo mọi chuyển quân của Bắc Việt trên trục giao thông quốc lộ 7 qua
biên giới Lào và xuống miền Nam.
Ngoài ra toán còn đảm nhận công tác
phá hoại và xây dựng căn cứ biệt kích trong vùng. Xui thay, dù của người hiệu
thính viên chính là Hồng Tôn Khải lại rớt trên cây rừng. Anh ta bị các nhánh
cây đâm chết. Người hiệu thính viên phụ không biết xử dụng mật mã truyền tin
của máy RC1, để có thể liên lạc với trung ương xin chỉ thị hay tiếp cứu.
Một toán viên khác là Đoàn Ngọc Lễ
19 tuổi, bị lạc hướng gió nên dù rớt xa vùng.
Sau này biết tin anh ta bị cọp vồ.
Bảy người còn lại bị bắt vào 5 ngày sau khi đang tìm đường triệt xuất
qua Lào vì cạn lương thực và nước uống. Đêm
mồng 2 tháng 8, toán lần mò xuống lấy nước ở một con suối thì bị rơi bẫy phục
kích. Bộ chỉ huy Sở Bắc ghi nhận toán
Boone bị mất tích…
Trong khi đó bà Lân ở Sàigòn, đang
mang thai đứa con thứ tư được 3 tháng. Người vợ lính vừa tròn 30 tuổi, không hề
hay biết gì về đời lính bí mật của chồng đã thay đổi từ hơn 1 năm nay. Mà biết
để làm gì? Cứ mỗi tháng ông đưa tiền lương lính về nhà để chi tiêu cho đời sống
gia đình là đủ. Chỉ mong có thế thôi!
Một tuần trước khi ông Lân nhẩy ra
Bắc có về thăm nhà và đưa cho vợ 50 ngàn đồng Việt Nam Cộng Hòa (tương đương với
trị giá 12-13 lạng vàng vào đầu thập niên 60), nói để dành khi sanh nở. Ông bảo đây là món tiền thưởng của chính phủ
tặng cho các quân nhân đạt được thành tích tốt.
Ông cốt ý giấu sự thật mà bà cũng tin như sấm!
Thật ra đây là số tiền tử của cơ
quan tình báo Hoa Kỳ (CIA) trả sòng phẳng cho thân nhân biệt kích nhẩy Bắc để
họ ra đi được yên lòng. Rồi thì bà Lân
không hay biết ông đi đâu và làm gì? Đã hơn một tháng qua không thấy ông về
nhà. Cũng không một ai thông báo tin tức
gì cho gia đình? Mà chẳng riêng bà, tâm
trạng gia đình của hai toán viên khác cùng xóm cũng bị hoang mang như vậy.
Đầu tháng 9 năm 1964, ông Thượng Sĩ
Triết ghé nhà trao tiền lương hàng tháng là 17 ngàn đồng Việt Nam Cộng Hòa cho
bà Lân. Bà vặn hỏi ông ta tin tức về chồng bà.
Lúc đầu ông nói là không biết gì cả?
Bà năn nỉ mãi thì Thượng Sĩ Triết cho biết, nghe tin đồn là ông Lân đã
tử trận nhưng không biết ở đâu? Bà Lân
và vợ của 2 toán viên khác bèn rủ nhau kéo lên nhà ông Triết, hỏi địa chỉ của
trung ương để biết rõ số phận của chồng họ.
Trung ương thông báo rằng, chồng các bà đã hy sinh khi đi thi hành nhiệm
vụ đặc biệt. Vắn tắt có thế thôi! Ba bà đau khổ trở về nhà làm lễ phát tang và
đành lấy ngày 29 tháng 7, để làm đám giỗ cho chồng hàng năm?
Nhưng đâu phải một mình bà Lân đau
khổ về chồng? Đời lính đa tình nay đây mai đó của ông Lân cũng có biết bao nhân
tình? Đầu năm 1961, khi còn là lính của Sư Đoàn 2 Bộ Binh trong ban xây dựng
nông thôn đóng ở quận Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, ông có quen một thiếu nữ thuộc
loại hoa khôi trong quận tên là Kim Chi. Chả là ông làm chỉ huy trong ban tuyên
dương công trạng với nhiệm vụ sắp xếp các cô gái xinh đẹp đi gắn vòng hoa danh
dự cho các chiến sĩ xuất sắc.
Rồi Kim Chi phải lòng người trai
chinh chiến. Miệng dẻo tán gái còn hơn mía lùi làm em mê chết được. Một lần ngã
lòng sao đó, nàng trao thân cho ông tưởng rằng chàng chưa có dzợ. Năm ấy, ông
đã 33 tuổi và nàng mới có mười mí cái xuân xanh. Ôi, đời đẹp biết bao! Ẵm được
người đẹp “chẻ chung” như thế là “chiếng” rồi, mấy ai được bằng! Hai người có
với nhau một bé gái. Đặt tên là Lan, vần tựa giống tên ông cho dễ nhớ. Ông cho biết
Lan sinh năm 1962, nhưng không nhớ rõ ngày tháng nào?
Nghe nói bà Lân biết chuyện hồi đó.
Nhưng nếu làm ầm ỹ lên thì chỉ thêm bẽ mặt. Lỡ ông giận lẫy, rồi cuốn gói theo
cô vợ bé và cúp viện trợ lương lậu luôn thì chỉ có kêu trời mà trách. Không lỡ
cam phận ở vậy nuôi con một mình nên đành bỏ qua cho nó xong chuyện. Vợ lính
ngày xưa là thế đó! Ai cũng dựa vào đồng lương của chồng. Đa số các bà chỉ biết
ở nhà sinh con đẻ cái, nuôi nấng và làm việc nội trợ trong gia đình. Thậm chí
còn phải giáo dục con cái thay chồng đi chinh chiến. Nhiều người vợ thất học, ù
ù cạc cạc ngay đến mẫu tự ABC cũng mù tịt…nên biết gì mà dạy con? Đành thả lỏng cho con cái nó muốn làm gì thì làm. Mặc bay lớn lên ra sao thì ra!
So sánh giữa hai người đàn bà, thì
dầu sao bà Lân cũng là vợ chính thức. Có tên có tuổi trong sổ lương bổng quân
đội của ông đường hoàng. Còn bà nhỏ kia được gì? Quyền lợi đâu? Lại phải mang
tiếng là gái không chồng mà chửa hoang. Thật ra, ông Lân đâu phải là sĩ quan
cấp lớn mà có nhiều bổng lộc? Riêng bé gái tên Lan lại không được mang họ của
cha, có đáng buồn không chớ? Đầu năm 1963, Ông Lân rời miền Trung để đi học
khóa huấn luyện biệt kích 12 tháng ở trại Quyết Thắng, Long Thành gần Biên Hòa.
Từ đó, người vợ lẻ không còn thấy hình bóng của ông nữa…
Sau khi bị bắt, công an cộng sản
giải toán Boone và toán Atilla (bị bắt cùng khu vực vào tháng 5 năm 1964) từ
nhà tù ở Nghệ An về Hỏa Lò, Hà Nội. Toán Boone cũng như các toán biệt kích khác
bị đưa ra tòa án nhân dân xét xử, được báo chí đăng tải rùm beng. Họ bị tuyên
án tù nhiều năm về tội làm gián điệp, đã cấu kết với “xịa” để đánh phá miền
Bắc. Riêng Nguyễn Gia Thoa, người hiệu thính viên phụ của toán Boone được thân
nhân là cán bộ gộc và người vợ lớn còn ở lại miền Bắc, bảo lãnh ra khỏi tù. Ông
ta trở về quê ở Hà Đông (ngoại ô Hà Nội) và không ai trong toán còn thấy mặt
nữa (trang 148 @1). Người này cũng từng lập gia đình với một cô vợ kế quê quán
ở Tuy Hòa, sau khi vào Nam
năm 54. Cô ta là một trong ba bà, đã kéo nhau lên trung ương để đòi lại “chồng”
bị ghi nhận là mất tích.
Sau phiên tòa cáo buộc, giám thị ép tù biệt
kích hợp tác ghi âm trong một phòng kín với đầy đủ chi tiết như danh tánh, cấp
bậc, đơn vị, số quân cũ và ngày nhảy ra bắc theo bài soạn của họ để đài Hà Nội
phát thanh về miền Nam. Mục đích tuyên truyền tố cáo chính phủ Sàigòn và cơ
quan tình báo Hoa Kỳ (CIA), đã huấn luyện và gởi biệt kích ra bắc để phá hoại
đảng và nhà nước. Tình cờ có người thanh niên tên là Uy, sống trong xóm nhà bà Lân
bắt được làn sóng phát tuyến và thông báo cho bác gái biết là có nghe được
tiếng nói của bác trai trên đài phát thanh Hà Nội. Như vậy là bác Lân trai vẫn
còn sống và hiện đang bị giam cầm ở ngoài bắc? Cả nhà vui mừng như thấy thân
nhân của mình vừa chết đi, nay đã sống lại!
Tháng 1 năm 1965, bác Lân gái hạ
sinh một cháu trai và đặt tên là Hùng. Anh này cùng với gia đình giúp trang trí
nhà cửa cho tân hôn của Điệp Viên Đặng Chí Bình được tổ chức vào ngày 28 tháng
9 năm 1981, có nói qua trong chương 37 tập IV hồi ký Thép Đen. Lúc đó Hùng mới
được 16 tuổi và chưa một lần thấy mặt cha ruột của mình bằng xương bằng thịt.
Có lẽ bác Lân gái phải bôn ba kiếm
sống để có thể nuôi nấng và dạy dỗ 4 người con nên người, trải dài gần 18 năm xa
chồng? Trong tù ngoài Bắc, bác Lân trai đã nhiều lần mường tượng cảnh chạy
ngược chạy xuôi, buôn thúng bán bưng lo gạo hàng ngày của vợ mình? Con cái có
ai dạy dỗ và học hành ra sao? Tuy nhiên, những gì ông suy nghĩ trong tù về thảm
cảnh gia đình của mình cũng không đến nỗi bi đát như thế! Vợ ông kể lại sau khi
ra tù và trở về miền Nam
vào tháng 2 năm 1982, như sau:
Cuộc sống tuy khó khăn về mặt tinh
thần vì thiếu vắng chồng, nhưng chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã lo lắng chu đáo
về mọi mặt như cấp dưỡng tiền lương lính hàng tháng tính theo thời giá cho đến tháng
4 năm 1975. Trung Ương Sở Bắc kiếm công ăn việc làm cho quả phụ của biệt kích.
Con cái được đi học ở trường Quốc Gia Nghĩa Tử ở Quận Tân Bình, Sàigòn.
Gia đình được hưởng tất cả các quy
chế của cô nhi quả phụ Việt Nam Cộng Hòa. Bà nói, thật ra thì chính quyền
Sàigòn đã chu toàn trách nhiệm với thân nhân biệt kích nhảy Bắc. Vợ con của ông
không phải cơ cực như ông nghĩ! Nghe vợ nói thế mà ông vui lây vì nghĩa cử của
chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, một đời ông phục vụ và tận tụy hy sinh.
Tính ra hơn 500 biệt kích sở Bắc và
trên 50 toán bị bắt từ năm 1960 đến 1968. Họ bị chuyển qua nhiều trại tù ở miền
Bắc. Hỏi về trại giam Cổng Trời (tên chính là Quyết Tiến), một nơi mà sĩ quan
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đi “cải tạo” sau năm 1975, đã viết nhiều bút ký về
trại tù này. Ông Lân kể lại, khi tù biệt kích bị đưa đến trại giam Cổng Trời
thuộc tỉnh Hà-Tuyên (Hà Giang & Tuyên Quang) gần biên giới Trung-Việt, giám
thị hù tù biệt kích rằng:
- Các anh chỉ “nên” đây mà không có
ngày đi “xuống”.
Nghe nói mà ớn lạnh vì ai bị đầy
lên trại giam Cổng Trời thì kể như hết. Thời tiết ở trại này khắc nghiệt vì địa
thế trên cao độ 2.500m, so với đồng bằng và luôn có sương mù bao phủ quanh năm.
Mùa đông lạnh cắt da từ 0-10 Celsius (32-50 F), mà tù biệt kích chỉ được phát
một bộ đồ tù sọc đỏ viền trắng mỏng manh. Độc địa hơn thẩy, hễ giám thị không
ưa tù nhân nào hoặc phạt tội ai thì mang đi cùm chân vào ngục đá kiên giam từ
30 ngày hay vài tháng chơi cho bỏ ghét!
Phần ăn chỉ có khoai mì mốc hay bo
bo (tù bị cùm, phần ăn giảm xuống còn 9 kg/một tháng). Cơn đói triền miên và áo
mặc không đủ ấm. Bệnh tật, không thuốc men và lao động khổ sai làm nhiều tù
nhân kiệt sức rồi chết. Họ ngược đãi đồng loại mình còn tệ hơn súc vật, được nuôi
ở nước ngoài!
Đến đầu năm 1972, thì tất cả tù
biệt kích đều bị dồn về ba trại tù chính ở miền Bắc. Riêng ở trại giam số 1(còn
gọi là Phố Lu) thuộc tỉnh Lào Cai (Hoàng Liên Sơn), tù biệt kích đã đạt được
một thắng lợi nhỏ khi đồng lòng tuyệt thực 4 ngày để phản đối Cộng Sản Hà Nội
không chịu trao trả tù binh chiếu theo hiệp định Paris vào trung tuần tháng 5
năm 1973(chương 20 @ 1). Vài tù nhân xách động cuộc tuyệt thực bị bắt cùm chân,
đánh đập, bỏ đói và tống vào ngục đá kiên giam một cách dã man và tàn bạo.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, bác Lân
gái liên lạc về quê chồng ở Thái Bình. Mẹ chồng cho biết là ông Lân vẫn còn
sống và đang bị giam cầm ở trại Phố Lu. Vào năm 1976, vợ ông có dẫn theo người
con gái thứ hai (lúc đó là thiếu nữ) lặn lội ra bắc để cùng với mẹ chồng đi
thăm nuôi. Cả ba đáp xe lửa đi Ga Phố Lu. Từ trạm ga này phải đi bộ hơn 2 ½
tiếng đồng hồ trên đường đá gập gềnh mới đến được trại giam Phố Lu.
Thân nhân được phép ở lại nhà tiếp
qua đêm 24 giờ. Những năm đó, tù biệt kích được thả lỏng đôi chút vì không còn
thế lực thù nghịch của chính quyền miền Nam . Ông Lân tháp tùng với gia đình
đi bộ xuống ga xe lửa Phố Lu để tiễn chân. Bịn rịn và xúc động lúc chia tay làm
ông nẩy ý định bỏ trốn theo vợ con. Nhưng rồi ông lại thay đổi ý định và lủi
thủi trở lại trại giam Phố Lu.
Ngày 21 tháng 2 năm 1982, ông Lân
được trả tự do và trở về miền Nam .
Cùng ngày này 12 năm sau, hai ông bà sang Mỹ theo diện HO 21. Bà Lân mắc bệnh
nan y và mất vào ngày 28 tháng 6 năm 1995. Thời gian bà sống ở Mỹ chỉ vỏn vẹn 1
năm 4 tháng. Một điều làm ông ray rức mãi là không có phương tiện, chở bà đi
chạy hóa chất trị liệu ở nhà thương địa phương. Có lẽ bà cũng chẳng biết nước
Mỹ rộng lớn ra sao nữa? Bà Lân được hỏa táng và thân nhân mang hài cốt về quê
hương.
Cuối tài khóa năm 1999 (ngày chót
30 tháng 6), Tổng Thống Clinton phê chuẩn văn kiện bồi thường cho mỗi người
biệt kích nhảy Bắc bị cầm tù trên 20 năm, một số tiền tối đa là $40 ngàn
dollars. Sau khi trừ đi 10% để trả lệ phí cho tổ hợp luật sư John C. Mattes ở Miami bang Florida ,
thì phần còn lại của mỗi người cũng còn kha khá. Cuối năm đó, ông Lân về thăm
quê hương lần đầu tiên sau 7 năm xa xứ. Ông cùng với 2 người con lớn ra tận
huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi, để tìm lại người tình xưa là bà Kim Chi. Ngẫu
nhiên người xưa và cô con gái vẫn còn sống trên mảnh đất tổ tiên đã bao năm qua,
nên việc tìm kiếm ra họ không khó. Khi thấy Lan thì ông giới thiệu cô ta với
hai người con của vợ lớn rằng:
- Đây là chị và anh của con!
Mọi người cảm động, ôm chầm lấy nhau
òa lên khóc. Dầu sao họ cũng có sự liên hệ máu mủ ruột thịt!
Vậy tình cảnh gia đình bà Kim Chi
ra sao hở bác?
Ông Lân kể vắn tắt:
Sau khi ông ra đi đột ngột thì
trung đoàn 5 thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa cũng được lệnh rút. Liên
Đoàn 11 Biệt Động Quân về tỉnh Quảng Ngãi thay thế? Nhờ có nhan sắc nên Kim Chi
quen một anh chàng trung úy. Hai người lập gia đình với nhau và hạ sinh một
cháu trai. Con gái tao cũng đổi sang họ của anh ta để được hưởng tiền phụ cấp.
Người chồng Trung Úy Biệt Động Quân sau này đã hy sinh trong một trận chiến và
cảnh mẹ góa con côi lại tiếp diễn…
Vậy bác trở lại huyện Sơn Tịnh để
làm gì? Hay có ý chấp nối lại mối tình ngày xưa?
- Tao cũng định như vậy. Nhưng đâu
ngờ…
Ngờ gì?
- Bà ta đã sang ngang với một
thương binh bộ đội một thời “đi B” (vào Nam chiến đấu) độ vài năm, sau biến
cố 75 rồi! Giờ thì ông lại lỡ một chuyến
đò thời gian. Bà Kim Chi có biết bác đã
có gia đình trước không?
- Ngày trước thì không, nhưng vì
thấy 2 người con lớn đi chung thì bà ta đoán ra. Vậy bác giải thích như thế
nào?
- Tao nói vì thời cuộc thay đổi chứ
ai nào muốn thế!
Còn cô Lan thì bác tính làm sao?
- Tao mua cho vợ chồng nó và 3 con
nhỏ một mảnh đất gần đó để cất nhà. Tôi thầm nghĩ như vậy cũng được, nhưng
không nói ra!
Từ dạo đó, không nghe ông nói trở
lại Quảng Ngãi để thăm người con gái riêng và 3 đứa cháu ngoại nữa? Nhưng thấy
ông thường liên lạc qua điện thoại với các con cháu người vợ lớn luôn!
Sau bao năm tháng ngục tù, biết
rằng ông không muốn tiết lộ bí mật về chuyện biệt kích nhẩy Bắc. Quỹ thời gian
không còn nhiều, còn chờ đến bao giờ? Thật ra, chuyện đời không hẳn tuyệt đối
như thế! Mấy người quen sát bên nhà ông
nói rằng, họ nghe ông kể chuyện biệt kích nhiều lần khi ngồi nhậu chung. Thậm chí, nhiều bạn trẻ chẳng biết ất giáp mô
tê danh từ Biệt Kích Sở Bắc là gì nữa? Có
người bênh vực ông với lý do: bác ta hay “dù” về Việt Nam , sợ nhà
nước làm khó dễ…anh muốn viết gì thì đọc sách Mỹ để phân tích hư thực! Coi như vô thưởng vô phạt vậy!
Thời chinh chiến đã qua. Miền Nam
thua nên người lính Cộng Hòa mang mặc cảm bại trận. Miền Bắc thắng, thì bộ đội cộng
sản phải có trách nhiệm bảo vệ tổ quốc. Riêng
người mẹ, người vợ và người yêu của lính, thuộc hai miền Nam-Bắc là bất hạnh
nhất. Nước mắt lăn dài trên gò má người
phụ nữ Việt Nam
khổ đau, bao tháng năm dài trông ngóng người chinh nhân ra đi biền biệt. Biết đến bao giờ anh trở về? Ngày anh về sau bao năm gặp lại, ta nhìn nhau
bỡ ngỡ…vì cuộc tình dĩ vãng thời lửa binh đã đi vào quên lãng!
Tài liệu tham khảo:
1) Secret Army Secret War (Đội Quân
Bí Mật Cuộc Chiến Bí Mật) của Sedgwick Tourison.
2) Biệt Kích Quân Bị Lãng Quên (SOG)
của John L. Plaster.
3) Thép Đen của Điệp Viên Đặng Chí
Bình.
4) Biệt Kích Sở Bắc Nha Kỹ
Thuật/Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa.
5) OP34A - Đường Vào Địa Ngục của
Biệt Kích Phan Tuấn Sơn.
6) Biệt Kích Quân “Chuột Nhắt”
Nguyễn Văn Tính viết theo lời kể của Nguyễn Khắp Nơi.
7) Chuyện Giăng Lưới bắt Biệt Kích
Mỹ và Trò Chơi Điện Đài mạng Công An Nghệ An.
8) Trại giam Cổng Trời (Quyết Tiến)
trên youtube.
9) Ghi lời kể sơ lược về chuyện
tình của người biệt kích toán Boone.
Đó Đây Trên Quê Hương
Darren Thăng
LTG: Kính dâng thân phụ đã phù hộ để hoàn thành sáng tác
nầy.
Như bao thanh niên thời ly loạn, bố
tôi đi quân dịch theo lệnh tòng quân nhập ngũ 3 năm của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm khi vừa mới di cư vào Nam
không được bao lâu. Năm 1954, ông chừng 19-20 tuổi và mới lập gia đình với mẹ
tôi từ ngày còn ở miền Bắc. Dĩ nhiên lúc đó, ông bà chỉ là cặp vợ chồng son nên
đi đâu cũng có nhau. Mẹ tôi với bản tính nhút nhát, hay dựa vào quyết định của
chồng nên hễ ông đóng quân ở đâu thì bà lại tháp tùng đi theo đến đó. Bố tôi
hay bị thuyên chuyển đi nhiều nơi, thậm chí có thể nói là khắp vùng I và II
chiến thuật.
Ông là người thẳng thắn, không luồn
cúi cấp trên nên thường bị xếp đì đi chốn xa xôi. May mắn thì được đóng ở gần
thành đô độ vài tháng, rủi ro thì nơi rừng sâu nước độc mút chỉ cà tha. Những địa
danh hẻo lánh nhiều sơn lam chướng khí, ít dân thì chỉ mình ông đơn độc đi mà
thôi. Dần dần mấy năm sau đó, vài mống con sinh ra đời trong doanh trại nên khi
chúng tôi lớn lên đành phải coi trại gia binh là nhà của mình vậy...
Những nơi bố tôi từng đi qua như
Huế, Đà Nẵng và cao nguyên Trung phần, không có nơi nào tôi có ấn tượng sâu sắc
bằng Huấn Khu Dục Mỹ (đặc biệt là Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân) và thành
phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Khoảng năm 1965 hay 1966 lúc đó tôi lên 5 tuổi, đã
hiểu biết và có trí khôn một phần nào nên chỉ nhớ được các địa danh nầy mà
thôi. Vài hình ảnh ở Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ, cứ gợi đi rồi
gợi lại xao xuyến trong tiềm thức của tôi từ nhỏ cho đến nay đã gần về già, như
chính mình từng sống qua cuộc đời lính chiến gian khổ vậy.
Nếu nhớ không lầm như là tôi cùng
với mấy nhóc tì, con cái của sĩ quan huấn luyện đã chứng kiến khóa sinh tập
huấn các bộ môn căn bản Biệt Động Quân như đi dây kinh dị, tử thần, cầu dây,
leo núi và tuột núi. Bài học đi dây tử thần (tựa zip line) mà hầu hết các khóa
sinh, từng tốt nghiệp khóa Rừng Núi Sình Lầy đều biết. Lũ nhóc gọi đùa môn đi
dây nầy là: “tuột ga phăng thắng”, bằng cách dùng dây cáp để băng qua suối.
Điểm A đầu dây cáp cao hơn điểm B, cuối dây.
Trước hết, khóa sinh leo lên vị trí
bục cao với tư thế chuẩn bị, hai bàn tay khóa sinh nắm chặt đoản cây móc vào
trục ròng rọc (pulley), nối với sợi dây cáp; Khóa sinh đu nhẹ co hai chân lên,
hơi bật ngửa ra phía sau để lấy trớn và trục ròng rọc bắt đầu lăn dốc nhanh về hướng
bên kia bờ suối. Trục ròng rọc trì vào sợi dây cáp do vận chuyển sức nặng thân
người, tạo ra lực ma sát kêu xành xạch.
Khi khóa sinh ra giữa giòng suối
dây cáp nặng chùng xuống, người huấn luyện viên đứng bên kia bờ phất cờ màu đỏ,
khóa sinh sẵn sàng buông tay khỏi đoản cây móc vào trục để rơi xuống mặt nước
một cái bõm. Nước bắn lên tung tóe và khóa sinh tự lội vào bờ hay được vớt bằng
canoe. Điều lạ kỳ là các khóa sinh phải mặc quân phục và đi giầy sault trong
lúc luyện tập nên khó bơi.
Ở bãi tập khác, khóa sinh đi trên
cầu dây có hai dây quai vịn tay để băng ngang một con suối với một thời gian ấn
định. Đơn giản tôi chỉ nhớ được như thế! Không biết có chính xác hay không? Đại
khái binh sĩ tập luyện bộ môn của binh sĩ. Còn con nít sống trong trại cũng có
trò chơi riêng. Nhớ mang máng ai đó, đã cột một sợi dây thừng lớn vào một thân
cây để bắc qua con suối cạn, từ bên nầy sang bên kia với chiều cao hai bên bằng
nhau. Đám nhỏ từng đứa một, bám tay vào sợi dây thừng, đu lần ra giữa con suối
rồi nhẩy dù xuống nước.
Tại một tụ điểm ghềnh thác khác,
con nít hay đứng trên các mõm đá nhẩy ùm xuống dưới suối tắm và nô đùa với nhau
vào mỗi buổi trưa chiều. Thời đó, nước đổ từ ghềnh cao xối xả và trong lắm. Tắm
mát đã luôn. Nay mường tượng lại nhiều trò chơi trong Huấn Khu Dục Mỹ, thấy
dzui ơi là dzui…
Nhắc đến Dục Mỹ là nói về thác và
suối. Nhiều nơi trong Huấn Khu Dục Mỹ, nhìn đâu cũng thấy thác nước, hồ và
suối? Đa số vợ con binh sĩ đồn trú ở Huấn Khu Dục Mỹ đều uống nước suối và tắm
giặt bằng nước hồ thì phải?
Một thắc mắc lớn mà tôi đặt câu hỏi
mãi cho tới nay, là nhiệm vụ của bố tôi làm gì ở Huấn Khu Dục Mỹ (Trung Tâm
Huấn Luyện Biệt Động Quân nói riêng) vào năm 1965? Ông giữ chức vụ gì mà có thể
mang theo vợ con vào đó sống chung? Cũng không biết gia đình chúng tôi sống ở
trung tâm huấn luyện nầy được bao lâu?
Bố tôi không phải là sĩ quan khoa
trưởng hay huấn luyện viên. Chưa một lần trong đời tôi thấy ông mặc quân phục nhà
binh hay bộ tác chiến hoa dù, cũng không đeo lon lá gì cả. Cho đến khi mãn phần,
ông không một lần kể khoe khoang hay tiết lộ bất cứ điều gì về kỷ niệm đời quân
ngũ của mình. Tôi cũng không bao giờ hỏi tới vì có ngờ đâu, nay tôi viết được
văn chương nên cần chi tiết dữ kiện để kiểm chứng cho đúng (các bạn trẻ nên để
ý kinh nghiệm nầy).
Đôi khi thấy ông yêu đời, hay ngân nga
bản nhạc tiền chiến Bức Tâm Thư: “Vài hàng gởi anh trìu mến. Vừa rồi làng có truyền tin.
Nói rằng nước non đang mong. Đi quân dịch là thương nòi giống…” Thật ra tôi chỉ thấy ông qua hình ảnh của một người y tá
nhiệt tình. Có thể ông thuộc ngành quân y ngày xưa và sau này là dân sự?
Tướng mạo của ông cao trung bình và
dáng vóc oai vệ thuộc típ điển trai hao giống hình ảnh của cố Chuẩn Tướng Trần
Văn Hai vậy. Nhìn bề ngoài thì nhiều người lầm tưởng ông phải là một vị sĩ quan
cao cấp, nếu như vô tình gặp mặt ở Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ.
Nhưng trên thực tế, ông chỉ là một dân chính bình thường như bao nhân viên công
chức khác mà thôi.
Gia đình chúng tôi về lại phố biển
Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên năm 1966? Theo lời cha mẹ kể lại trước khi dọn đến Huấn
Khu Dục Mỹ, chúng tôi đã từng sống ở thành phố nầy? Vì còn bé bỏng làm sao nhớ
được? Lần trở lại đây, không còn ở trong trại gia binh nữa (hiện nay là doanh
trại quân đội nhân dân Việt Nam
qua online).
Bố tôi đã giải ngũ, chuyển qua dân
sự và làm việc cho Bệnh Viện Tỉnh Phú Yên. Bố mẹ tôi thuê một căn nhà gạch tồi
tàn, tường vôi bạc mầu ở một khu lẹp xẹp tại phường 2, thị xã Tuy Hòa. Chỉ
trong nhà mới lót gạch bông cũ kỹ và nhà bếp thì nền bằng đất. Đun củi chụm
bằng dầu hôi. Cửa ra vào xiêu vẹo, không có khóa vặn tay, chỉ gài then chốt sơ
bên trong vào ban đêm, còn buộc dây xích có ổ khóa bên ngoài khi đi chợ.
Chung quanh hàng xóm láng giềng có một
số thuộc lực lượng dân sự chiến đấu, và đa số là lính Biệt Động Quân. Nhìn khu
xóm tưởng đây cũng là trại gia binh, nhưng khác một tí là không có hàng rào kẽm
gai. Chẳng có ai thuộc diện sĩ quan Biệt Động Quân sống trong khu vực nầy cả.
Ngày xưa sĩ quan của ta sống biệt lập với lính trơn, nên đâu có ai muốn ở chung
chạ với lính để làm mất giá trị của mình? Những người hàng xóm lính trơn Biệt
Động Quân và vợ con của họ rất dễ thương. Nước da của họ đen thui đen thủi nên
anh em chúng tôi không biết, gọi đại họ là người Campuchia. Ngôn ngữ của họ
phát âm tựa tiếng Khmer và nói lơ lớ tiếng Việt Nam .
Sau nầy qua Mỹ, ngẫm nghĩ lại mới
biết họ là người dân tộc thiểu số gốc Ê Đê (Rhađê trước 75) gì đó. Họ sống hòa
mình với tất cả mọi người. Gia đình tôi không còn diện lính nữa, nhưng họ vẫn
cư xử như thành phần binh sĩ với nhau. Họ thuộc tầng lớp nghèo, chỉ dựa vào
đồng lương lính của chồng. Họ quý bố tôi lắm vì ông hay tiêm thuốc cho gia đình
họ, đôi khi không tính tiền nong. Vì vậy mà có cái gì ngon là họ đem biếu hay
gọi bố tôi qua nhậu cho vui. Mà có cái gì ngon đâu, dăm quả cóc, miếng xoài,
trái ổi và vài xị đế hay rượu cần dzô dzô, chén anh chén tôi.
Lâu lâu họ bẫy được con heo mọi hay
săn được nai và nhím trong rừng, mang về xẻ thịt. Nghe tiếng các bà nội trợ
lính trong xóm gọi nhau ơi ới cùng nhau bầy vẽ làm các món ăn như giả cầy, heo
quay và thui v.v. Họ hay nướng thịt mùi hơi khét khét, tiếng
cháy của mỡ xèo xèo khi lửa
bốc lên ngoài sân chung với nhau, rất vui nhộn. Có miếng thịt nai thì quý hóa
lắm, nhưng họa hoằn hiếm khi săn được. Thịt nai đỏ tươi được cắt thớ mỏng đem
phơi khô ngoài nắng trên lưới đan, có rắc chút vừng lên trên đó. Nói chung là
họ luôn chia ngọt xẻ bùi, có miếng cùng hưởng, có họa cùng chia.
Đối diện nhà tôi có một ông người
kinh làm nghề kẹo kéo mang đi bán dạo mỗi ban trưa. Ông dùng cây cột trụ nhà là
nơi đập kẹo kéo có trộn đậu phộng ở giữa. Bủa vài khối kẹo vào thân cây cột nhà
với nhau, kéo dài cây kẹo mỏng tơ ra cho nó dẻo dẻo. Lúc đầu kẹo kéo mầu vàng
đục, hình như làm bằng đường cát, nhìn thấy chẳng hấp dẫn chút nào? Quất mạnh
rầm rầm tới lui nhiều lần, mầu kẹo vàng đục trở lên trắng dần. Theo dõi cách
làm mà muốn chảy nước miếng.
Lũ nhóc chúng tôi xin tiền mẹ mua
ăn khen ngon đáo để. Lâu lâu mua thêm phần kẹo cho vài đứa bạn chơi thân, mút cho
dzui dzẻ. Ngày đó còn con nít, chẳng để ý cột nhà người ta dơ như hạch, ruồi
nhặng bu đầy và thật mất vệ sinh. Cứ thấy kẹo ngon là mua ăn, mà còn phải trực
chờ đứng xem cho đến khi ông ta ra kẹo nữa chớ. Con nít ở Việt Nam
ngày xưa thấy cái gì ngon ngọt cũng cảm thấy thèm và thiếu…
Lực lượng Biệt Động Quân vào năm
1965-67 đánh nhau rất chì. Họ được coi là đơn vị tổng trừ bị ưu tú với huy hiệu
“Cọp Ba Đầu Rằn”, oai hùng ngang hàng gần với Sư Đoàn Nhẩy Dù và Sư Đoàn Thủy
Quân Lục Chiến vậy. Những năm đó, lực lượng nầy chưa cải tuyển thành Biệt Động
Quân Biên Phòng vì lính Biệt Động Quân người dân tộc đâu có đóng ở các tiền đồn
xa xôi hẻo lánh? Họ sống tại thành phố Tuy Hòa, là hàng xóm với chúng tôi cho
tới khi lính Mỹ bàn giao các căn cứ gần biên giới cho QLVNCH vào cuối năm 1970.
Nhiều lần đi hành quân, lực lượng
Biệt Động Quân đều chiến thắng vẻ vang trở về. Mỗi lần như vậy, họ đều mở tiệc
ăn mừng linh đình và nhảy nhót vũ điệu dân tộc. Ngỡ lính nào ở đâu chết thì
chịu, nhưng ít thấy lính Biệt Động Quân xóm tôi hy sinh. Đa số lính Biệt Động
Quân nầy hay chơi bùa ngải để giữ mạng. Cổ người nào cũng đeo mấy miếng bùa
vải, nanh heo rừng hay vật gì giống như tai người phơi khô quéo. Hỏi họ là cái
gì thế, thì họ nói đùa vui chơi là tai của Việt Cộng chết, cắt về phơi khô để
làm bùa hộ mạng.
Nhưng rồi họ cũng đâu tránh được
đạn thù mãi mãi. Chiến tranh leo thang và người lính đánh giặc cũng ra đi. Một
số hy sinh vào các cuộc hành quân sau. Vợ con họ khóc lóc đau khổ lắm, làm gia
đình chúng tôi mủi lòng thương xót. Người sống góp tiền góp công giúp đỡ an ủi
để lo hậu sự. Một điều thắc mắc lúc còn nhỏ, là vài người lính Biệt Động Quân
người dân tộc đoán biết vận số của họ trong những lần hành quân sắp đến? Có
người linh tính nói rằng trận tới họ sẽ hy sinh?
Hình như, một số người dân tộc
thiểu số gốc Ê Đê (Rhađê trước 75) không thích chôn dưới lòng đất như người
kinh? Xác họ được hỏa thiêu theo tục lệ Chămpa xưa, hay mang về những vùng rừng
núi quê nhà ở cao nguyên Darlac? Xóm tôi hơn chục căn nhà gốc gác đều là lính
Biệt Động Quân người dân tộc thiểu số, ngày càng thưa dần theo tháng năm…
Sống
ở đâu cũng có nhiều kỷ niệm vui buồn. Tuy nhiên, sinh ra và lớn lên trong một
đất nước chiến tranh thì nỗi buồn nhiều hơn vui. Bên trái xóm Biệt Động Quân
của chúng tôi xa xa là Thánh Đường Tuy Hòa. Nhà thờ được xây dựng vào đầu thập
niên 1960, theo lối kiến trúc tây phương rất đẹp. Đặc biệt có tháp chuông cao
chót vót và mái ngói đỏ kiểu hình chữ A tọa lạc trên một mô đất cao.
Nhìn dưới xóm ngó qua triền đồi,
cảm tưởng thánh đường như một bức tranh sơn dầu vẽ trên vải bố (canvas)
trong các làng mạc bên Âu Châu. Sau những cơn mưa rào vào mùa hè, vừng thái
dương xuất hiện ngoài biển Đông, thường thấy cầu vồng bảy sắc óng ánh hiện trên
nền trời bên phía thánh đường trông rất đẹp mắt.
Chung quanh nhà thờ ngày đó còn
trống trải, không có dân cư ngụ nên hiển nhiên trở thành một mục tiêu tốt để
cộng sản bắn phá cho bỏ ghét. Một sáng sớm tinh sương nào đó, bọn cộng sản pháo
kích vào nhà thờ làm lủng một lỗ to tướng trên mái ngói đỏ. Khoảng độ 4-5 giờ
rạng sáng, khi chưa có ai đi nhà thờ nên không người nào thiệt mạng cả.
Sáng hôm sau, cha sở và giáo dân
xem xét hiện trường. Nhiều người rủa bọn cộng sản tưng bừng vì lấy chi phí đâu
để sửa chữa thiệt hại. Cả tuần lễ sau trên mái ngói đỏ đó, được lợp mấy miếng
tôn mầu xám tro, vít lỗ hổng lại để che nắng che mưa. Sân cỏ nhà thờ nầy thường
là nơi trẻ con đá bánh và chạy nhẩy tung tăng vui đùa với nhau.
Còn bên phải xóm Biệt Động Quân là chùa Bảo Tịnh. Chùa tọa
lạc trên một thửa đất mầu nâu nâu bằng phẳng rất rộng. Chùa Bảo Tịnh có cổng
tam quan kiến trúc rộng rãi. Xe hơi có thể chạy ra vào dễ dàng. Chùa được xây
dựng vào năm 1962, nằm trên đường Phan Đình Phùng (kiểm chứng trên online), rất
gần xóm chúng tôi. Hai bên đường lộ trồng dọc hàng cây dương liễu và thông, gió
biển thổi vào làm cây lá dập dìu với nhau tạo lên âm thanh rì rào vi vút suốt
ngày lẫn đêm.
Trong vòng bán kính chu vi rộng lớn
bao chung quanh ngôi chùa, rất ít bóng người qua lại. Bên trái ngôi chùa ngày
đó có chừng 3 hồ sen rộng lắm. Có hồ thì nhiều sen và nước đục ngầu xanh rờn,
nên không tắm được. Còn các hồ kia nước trong hơn, thường là nơi tụ họp tắm lậu
của đám con trai vắt mũi chưa sạch.
Tất cả các hồ đều cắm bảng cấm tắm,
nhưng không ngăn được đám con nít sống trong vùng thích bơi. Tôi cùng vài nhóc
tì hay tà tà theo mấy anh lớn đi nghịch nước. Cha thì đi làm đầu tắt mặt tối
kiếm tiền. Mẹ thì ở nhà trông nom em bé và lo việc nội trợ gia đình. Chẳng hay
biết còn mình cúp cua, hùa với nhau đi chơi nghịch phá.
Buổi trưa thường cởi áo nhẩy xuống
hồ, mà đa số có biết bơi gì đâu. Hồ sen sâu hơn chiều cao của đứa trẻ Á Đông
6-7 tuổi. Nhiều thằng con nít liều mạng nhẩy xuống bơi theo các anh lớn tưởng
dễ ẹt, bị uống nước sặc gần chết. Đến khi có đứa chìm lỉm, mấy trai lớn mới hô
hoán ầm ỹ lên vì không cứu được, thì sư sãi mới chạy ra cứu vớt. Nhưng đôi khi
cũng quá trễ, chỉ mong vớt được xác lên để người nhà đem về chôn cất.
Thấy tai hại như vậy mà đám trẻ
cũng không chừa. Chứng nào tật nấy! Cũng vì hay di chuyển chỗ ở nhiều nơi và
lêu lổng học hành mà chính tôi phải ở lại lớp. Học trễ hơn chúng bạn đồng tuổi
một cấp lớp. Âu cũng là một kỷ niệm đáng nhớ trong đời với câu nói mỉa mai: “Nhỏ
không học lớn làm Đại Úy!” Không biết chùa Bảo Tịnh bây giờ có còn mấy cái hồ
đó nữa không nhỉ?
Mỗi tuần lễ, bố tôi thường trực đêm
ở Bệnh Viện Tỉnh Phú Yên, ít ra hai hay ba lần. Địa điểm bệnh viện tọa lạc ở
hướng bắc, bên trái trên con đường Trần Hưng Đạo (kiểm chứng trên online), hơi
xa trung tâm thành phố một chút. Đường đi gần bờ biển có trồng rất nhiều rặng dương
liễu và thông reo.
Ban đêm vào 8 giờ tối, bố tôi thỉnh
thoảng đèo 1-2 người con theo ông tuốt một lèo chỉ một con đường cái đi ra bệnh
viện. Nghe gió vi vu xào xạc của liễu thông là thấy rợn cả người. Đèn đường thì
chỗ tỏ chỗ mờ. Đa số phải dựa vào đèn xe gắn máy. Cảm tưởng trên đường lúc nào
cũng có những vệt sáng chiếu ngược từ hướng bệnh viện về trung tâm thành phố
như bóng ma trơi. Có lẽ do ảo giác vì ánh đèn xe gắn máy rọi phản chiếu mầu cát
trắng? Chúng tôi sợ phát khiếp vì đường quá vắng vẻ rất ít xe cộ qua lại, hay
lúc đó còn nhỏ nên ai mà không sợ. Người lớn thấy còn run nữa, huống chi là con
nít.
Bệnh Viện Tỉnh Phú Yên sơn mầu
trắng có nhiều tầng lầu cao ốc. Mặt tiền bệnh viện hướng ra biển. Bên trong
khuôn viên bệnh viện trồng nhiều cây liễu thông cao vút và nhìn đâu cũng thấy
cát trắng. Năm 1966-67, bệnh viện chỉ có 1 building trơ trọi. Chung quanh không
có dân cư ngụ.
Theo nhận xét của tuổi thơ có trí
nhớ tốt thì bệnh viện thuộc dân sự, nhưng cũng phục vụ cho lính khi cần. Thị xã
Tuy Hòa vào ban đêm ít người ra đường lắm. Bãi biển Tuy Hòa tương đối dài bằng
phẳng nhiều cát trắng nhưng bị lu mờ vì địa thế nằm cạnh bãi biển Nha Trang thơ
mộng và nổi tiếng hơn, nên chẳng có mấy du khách đến viếng thăm? Vả lại nước ta
đang trong thời kỳ chiến tranh, thiên hạ sợ ngay ngáy có ai ham thích để đi du
lịch?
Có một lần tác giả mục kích vài tàu
há mồm với số lớn binh sĩ mặc quân phục mầu xanh tác chiến, mang súng ống đầy
mình đổ bộ lên trên bãi biển lúc xế chiều, không xa Bệnh Viện Tỉnh Phú Yên là
bao. Nhìn chung quanh loáng thoáng chỉ số ít thường dân ngắm biển đứng xem.
Nói về ăn uống, Phố biển Tuy Hòa có
nhiều món đặc sản tuyệt vời như sò huyết nướng bằng than vào xẩm tối ăn quên
chết luôn! Nhìn mấy tay nhậu nhâm nhi, vừa uống bia 33 một hớp, húp chút chất
ngọt sò huyết chấm muối tiêu vắt tí chanh, là quên đi cảnh chiến tranh chết
chóc. Ai là lính từng đóng ở Tuy Hòa, chắc không quên món quê hương nầy hỉ?
Ngoài ra dọc duyên hải miền Trung còn có nhiều cồn cát rộng mênh mông. Đi lún cả
chân và nắng cháy da người, như đi trong sa mạc vậy. Những kỷ niệm trên tuy tầm
thường, nhưng nay có dịp để viết lên cho biết đó biết đây!
Sống ở thị xã Tuy Hòa lần thứ 2
không được bao lâu, thì bố tôi lại thuyên chuyển về Bệnh Viện Biên Hòa. Nơi đây
bố tôi từng làm việc với các bác sĩ Úc và Mỹ để học hỏi kiến thức Tây Phương.
Bác Sĩ Úc thương tặng boomerang (móc gỗ ném đi thì nó quay ngược trở lại). Bác
Sĩ Mỹ tặng Whisky vào dịp lễ Giáng Sinh hay dự tiệc liên hoan uống beer
Budweiser lon tiễn họ về nước.
Nhưng mơ ước của ông là được về gần
gũi với gia đình bên nội, đang sinh sống ở Sàigòn. Thú thật ngoại trừ Sàigòn
ra, chẳng có nơi nào làm tác giả nhung nhớ bằng Huấn Khu Dục Mỹ và thị xã Tuy
Hòa nói riêng, nơi có nhiều kỷ niệm của thời ấu thơ. Tuy thời gian ở đó ngắn
ngủi và sự hiểu biết non nớt, nhưng hình ảnh của các anh lính trơn Biệt Động
Quân người dân tộc thiểu số và thân nhân của họ thật đáng mến. Họ sống vô tư
lự, không nghĩ đến ngày mai. Có đồng nào xào đồng nấy. Tiền lính tính liền! Một
điều cảm phục nhất, là họ đã dấn thân phụng sự đất nước một cách dũng cảm vô
biên, không sợ chết! Biệt Động Quân người dân tộc thiểu số hy sinh không ít
trong cuộc chiến Việt Nam .
Họ xứng đáng được Tổ Quốc Ghi Ơn!
Bố tôi phục vụ ở Bệnh Viện Biên Hòa
khoảng 3 năm, thì lại thuyên chuyển về Viện Quốc Gia Phục Hồi tọa lạc ở số 70
đường Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Thành Phố Sàigòn với chức vụ Y Tá Trưởng khu
điều dưỡng và trợ lý chức năng tay chân giả cho thương binh tật nguyền. Nơi nào
ông cũng phục vụ thương binh và trẻ em khuyết tật bẩm sinh tận tình. Ông được
giữ lại phục vụ một thời gian sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, rồi bị thôi
việc.
Gia đình được tôi bảo lãnh qua Mỹ
vào mùa hè năm 1991 và ông bà chọn định cư ở Nam Cali, nơi có nhiều thân nhân
họ hàng của ông cư ngụ. Hơn 10 năm sau, bố tôi mắc phải chứng bịnh bệnh nan y
vì ăn uống nước ao tù đầy muỗi mòng sốt rét từ ngày còn trong quân đội? Hay có
lẽ do hệ lụy phục vụ thương bệnh binh trong phòng mổ thiếu vệ sinh khử trùng?
Ông qua đời vào tháng 10 năm 2003 ở
miền Nam Cali. Nay tôi có dịp viết lên trân trọng cảm ơn người đã mang chúng
tôi theo, qua những vùng đất quê hương miền Trung khó nghèo và sống gần gũi
thực tiễn với đời sống binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Để cảm thông nỗi khổ đau,
đồng chứng kiến sức chịu đựng bền bỉ và sự mất mát to lớn của họ trong chiến
tranh Việt Nam .
Darren Thăng
Here and There In The Homeland
Darren Thang
Author’s note: This story is dedicated to my father, who
blessed me to make it a successful accomplishment. This English version is only
a summary of the whole story.
Like many young men during the war,
my father was enlisted into the army for 3 years under President Ngo Dinh
Diem’s government after migrating to the South not long ago. In 1954, he was
about 19-20 years old and recently got married to my mother while living in North Vietnam .
At that time, they were a young couple without children and liked to stay
around each other.
My mother was a shy woman and
always relied on my dad’s decisions, so wherever his station was located, she
would go along with him. My father was
transferred to many places, especially some areas like the first (I) and second
(II) Corps of the Republic
of Vietnam (had 4
Division Corps before 1975).
He was a straightforward man, not
willing to crawl under his commander’s authority, so he was often sent
somewhere far away. It was good luck if
his station was nearby a small town for a few months and bad luck if it was in
a jungle for a long time. In some remote
areas with harmful environments and hardly any local villagers, he would go
alone without his wife. Gradually, some of us were born a few years later in
the army barracks, and we had considered those places as our main home after
growing up.
My father traveled around to
several cities like Hue , Da
Nang and the central highlands of Vietnam . But, none of those places
impressed me as much as the Training Area of Duc My (especially the Training
Center of Rangers) and the city of Tuy
Hoa , the Phu Yen province.
In 1965 or 1966, I just turned 5
years old and can only remember a little bit about those places. However, some
memoirs regarding the Training Center of Rangers kept coming back into my mind
since my childhood, just like if I had been through a soldier’s life. I still
remember the place where some of my friends (children of training officers) and
I used to watch many military cadets who were practicing the basic training of
rangers.
For example, the wire of terror,
the zip line, the rope bridge and the rope climb. The kids often teased about
the zip line training for rangers as: “Out of control and no brakes”, which
used a wired cable to slide across the wide stream. Point A, at the beginning
of the wire, was always higher than point B at the end.
First of all, a cadet would climb up
to the location of point A and get ready to go. His hands would grasp a handle
that was hooked up to a pulley and wired cable. The cadet would pull both of
his legs up and lean his body toward the back to force some movement then, the
pulley would start to roll quickly down to the other side of the stream bank.
The pulley would drag down the wired cable and create noisy friction due to the
movement of a body.
When a cadet reached the middle of
the stream, the cable would slack downward. An instructor would stand on the
other side of the bank and begin to wave his red flag. The cadet would freefall
into the water with a sound of splashing. The cadet either swam to the stream
bank or was picked up by a canoe. The funny thing was that all the cadets had
to wear their uniforms and army boots during their practice, so it was hard for
them to swim. In other practice sites, cadets would have to walk on a rope
bridge that had two strings on both sides for a limited amount of time.
That is all I can remember about
it. I don’t know if my memory is actually accurate or not. In general, cadets
practiced on their training lessons. The children who lived in the barrack had
their own playground.
I remember that somebody tied a
large rope from one tree to another, so that the children could swing across a
lowly stream. The children, one by one, would grasp the rope and swing their
bodies to the middle of the stream and jump down. Some children were usually
seen taking showers under a waterfall during noon time. There was lots of water
falling from the rocks above and the water seemed to look clear. The refreshing
water was very cool.
Today, I think about the Training
Area of Duc My many times and say that it was a lot of fun.
Mentioning the city of Duc My is speaking about a
place with natural spring water. In many places within the Training Area of Duc
My, you can find waterfalls, lakes and streams anywhere. The majority of the
troops’ relatives, who were stationed in the Training Area of Duc My, drank
mineral water, but used lake water for bathing and laundry.
A curiosity that I often question
myself until now is what was the duty of my father at the Training Area of Duc
My (Special the Training Center of Rangers in particular) in 1965? What was his
role in the training center that allowed him to bring his wife and children to live
there? Also, I do not know how long our family stayed in the center. My father was
neither a Chief Officer nor a training instructor. Not once in my life did I see
him wear his uniform or garrison combat uniform. He did not wear any medal at
all.
Until he passed away, he did not
once mention, boast or reveal anything about his military background. I also
never asked him about it. I feel regret now because, sometimes, I need some detailed
facts to verify my story (Young readers should pay attention about this
experience). Once in a while, he felt very happy and sang a song of pre-war which
was called “The Letter”. "Few lines send
him affectionately, recently the village has notice. Saying that your country
is expecting of you, go army is a patriot man...".
Actually, I’ve only seen him as an enthusiastic
combat medic. He may have been an army medic in the past and later a registered
nurse (a high position for men at that time). He had an average height and was
muscular, a typical handsome man like the image of Brigadier General Tran Van
Hai. Looking at his appearance, many believed that he held a senior officer
position, if coincidently someone met him in the Training Center of Rangers.
But in reality, he was just one of the ordinary employees, like other public
servants.
Our family left for the city of Tuy Hoa , Phu Yen province
in 1966. According to my parents, before we moved to The Training Area of Duc
My, we used to live in this city. It was hard to recall the memory. This time, we were no longer living in the army
barracks (this barrack is now called the Vietnam people's army). My dad was
discharged from the army and transferred to civilian work for the Hospital of Phu Yen .
My parents rented a brick house in run
down condition, which was located in the second ward of the city, Tuy Hoa. The house’s
siding was worn down with lime and mold. The living room floor was installed with
old tiles and its kitchen was bare with dirt. We used wood for cooking. The entrance door
had no door knob. We used a wooden pin for locking on the inside to stay safe at
night and a chain lock on the outside when we were going to the market.
Some of the surrounding neighbors were
the Civilian Irregular Defense Group (CIDG) and the Vietnamese Rangers. Looking
at our neighborhood, people would think that this was another army barrack,
except with no barbed wire around it. There was no military officer living in
the neighborhood. They did not even want
to live with the troops because it would lower their value.
The Vietnamese Rangers and their
families were very nice people. Their skin was very dark, which misled us into calling
them Cambodian. Their language dialect was similar like the Khmer and they all spoke
our Vietnamese language with their heavy accent. I found out that they were the
ethnic minority of Rhade while living in America . They tried to live in
peace with everyone. My family was no longer intact to the army unit anymore,
but they still treated us like their buddy soldiers.
The Vietnamese Rangers were
considered very poor and only relied on their husband's wages. They respected my
father very much because he often injected medical drugs for their families
without charging anything. So when they had anything tasty, they often called
my father to come over for fun. There was nothing delicious to eat at all. Frog
fruits (Ambarella), mangoes, guava and a few homemade alcoholic beverages to
drink…just have a good time, you drink your cup and I’ll drink mine.
Once in awhile, they trapped a black
pig with its saggy belly or hunted deer and porcupine in the forest to bring
home. The housewife’s neighbors called each other out together to make some
dishes such as barbecue or fake dog meat, etc. Their infamous dishes were barbecue
with the sound of fat burning, hissing when the fire picking up off the pitch
together. It was very fun.
However, it was rare to have a
piece of deer meat. A venison cut was very thin, usually sundried on a mesh
knit and sprinkled with sesame. Generally, they always shared good things with
each other with their simple mind. Nice things to share, bad things to burden.
Opposite from my house was a man
who made the Vietnamese candy pulling (kẹo kéo) to sell every noon. He used one
of his house’s pillars to make candy pulling with peanuts mixed in between. He
wrestled a few pounds of candy on the trunk column together, and then stretched
it into a thin silk candy pulling, which had become long and flexible.
At first, the candy pulling’s color
was opaque gold, which may have been made by private cane or sugar. Whipping
back and forth the candy pulling on the column several times, the candy slowly turned
to an opaque white. By following and watching the candy pulling’s composition
and process, our tongues got a bit watery. The children would ask their moms
for money to buy the candy and say some good compliments about it. Sometimes, we bought extra candy for our
friends to eat for fun.
We, however, had never paid any attention
to his pillar, which was so dirty with blowflies and disinfectant. Just to see the delicious candy, then buy and eat
it. Usually at every noon, we must wait and watch the candy pulling process until
he finished his products. Some children in Vietnam in the old day saw something
delicious with sweet cravings, but couldn’t afford it and felt the lack.
The Vietnamese Rangers were a tough
force in 1965-1967. With their
badge, the "Tiger Three First Ran", they were considered the elite
infantry unit, a well-trained and strong force like the Airborne and Marine Divisions.
In the early years, the Vietnamese (ARVN)
Rangers Federation had not been reorganized into the ranger border because the rangers
belonged to the ethnic minority people who were not stationed at the
border forts. They lived in the city of Tuy Hoa
and were our neighbors, until the U.S. forces handed over the
border camps to the Army of the Republic of Vietnam (ARVN) in the late of 1970.
Many times, when they went into combat
operations, the Vietnamese Rangers were mostly victorious. Each time they won a
battle, they threw a party and danced in their ethnic’s customs. Often, I had
seen other infantry soldiers die, but not with my rangers’ neighbors. The
majority of my rangers’ neighbors used talismans for self protection. They usually
wore a few pieces of enchantment cloths, wild boar tusks or something like human
ears around their necks.
Sometimes, I asked them, “What is it?”
They made funny jokes with me that they were the ears of dead Viet Cong. The
rangers, however, could not avoid their enemy’s bullets forever. The war
escalated and the soldiers would also be sacrificed, sooner or later. Some of
them died on their next operation. Their wives mourned about their death and suffering,
so my family felt much sympathy towards them. Some people offered money and
others contributed assistance at their funerals.
I still wonder now about how some of
the rangers were guessing when they would be sacrificed in their next battle. Some
ethnic minority people (origin Rhade) preferred not to be buried under the
ground, unlike the normal Vietnamese’s funeral tradition. Their bodies would be cremated, like the Champa’s
custom, or be carried back home into the Highlands
of the Darlac province. My neighbor had more than a dozen residents who
belonged to the rangers of the ethnic minority people, gradually becoming
lesser as the time flew by.
Living anywhere, everyone would
have happy and sad memories. However, born and raised in a war torn country, you
would have more sadness than fun. On the left side of our ranger neighbor was
the Cathedral of Tuy Hoa, which was located on higher ground.
The Church was built in the early
1960s, in the Western architecture style that looked beautiful. Especially, the
Bell Tower , which was tall and with its red tiled
roof in an A frame. Looking from the slope of the hill at our neighbors, the cathedral
resembled an oil painting picture on canvas, like some villages in Europe .
After heavy rain in the summer, the
sunrise reflected off the sea. We often saw rainbows with seven iridescent colors
on the cathedral skyline, which looked very nice. Around the Church in those years,
there were no nearby residents, so it obviously became a good target for Communist
shelling. On one early morning, the Communist’s artillery made a big hole on
the red tiled roof of the Church at around 4 or 5 A.M. At that time, no one arrived
at the church yet.
The next morning, the pastor and
parishioners looked at the scene. Many people accused the Communist as criminals
of war because the pastor and the inhabitants didn’t have enough money to
repair the damage. In the following week, the red tiled roof was covered with a
few pieces of metal to block the sun and precipitation. The area around the church
was used as a playground for the children to play with each other.
On the right side of our ranger
neighbor was the Pagoda of Bao Tinh, situated on a wide and flat ground site. The
Pagoda of Bao Tinh had three main gate entrances. Cars could run in and out
easily. The temple was built in 1962 on Phan Dinh Phung Street , which was very
close to our neighbors. Both sides of the street were planted with willow trees.
The ocean breeze blew on the willow
and pine tree’s leaves, so that they were always making a slamming sound all
day and night. Within a radius of vast circumference around the temple, very
few people seemed to patron around. The temple had 3 lotus lakes on the left side.
Some lakes had too many lotuses, which made the water an opaque green, so no
one could take a bath.
For other lakes, the water seemed
to be cleaner and that was the place where kids usually hung around to swim
without permission. All of the lakes had signs of “banned swimming”, but did
not prevent the children living in the region, who liked to swim. Small boys
often followed the teenagers to go swimming mostly every day. The fathers worked
hard for the money to raise their families. The mothers stayed at home to take care
of the baby and did house work. They did not know that their children were
skipping school to play elsewhere.
Every noon, boys often took off their
shirts and jumped right into the lake, but not many of them knew how to swim. Some
spots of the lotus lakes were deeper than the average height of a 6-7 year old Asian
boy. Many small boys followed the teenagers, who jumped right into the lake,
with the thought that it was a piece of cake.
In some cases, they swallowed a lot
of water and sank down under the lake, but unfortunately some teenagers could
not save them in time. Then, the Buddhist monks were called out from the temple
to rescue the drowning kids. Sometimes, it was too late and the monks just
picked up the body from the lake. Their parents brought the body home for a proper
burial. Despite this trouble, however, the kids didn’t learn their lesson. They
repeated that problem over again and so did I.
Since my family moved around to many
places in the homeland, I couldn’t catch up on school, which made me fail one
grade. I stayed back in one class that compared to my peers. It was the hardest
memory in my life with this ironic joke phrase: "Do no education when
little, you would become a captain in ARVN when grow up!" Presently, I don’t
know if the Pagoda of Bao Tinh still has those lotus lakes anymore.
My father often worked two or three
nights a week at the Hospital
of Phu Yen province. The
hospital was located in the North and on the left side of Tran Hung Dao Street , which was quite far
away from Center City of Tuy Hoa.
The street was built along the Pacific Coast and both sides were planted with pine
trees. Some nights around 8 P.M, my dad rode 1 or 2 of his children on his
motorcycle toward the hospital to be with him. The noise of ocean waves from
the high sea crashed onto the shore and the wind blew rapidly on the willow and
pine tree’s leaves, which made us feel terrified.
The streetlights in some areas were
very dim. It did not accommodate the drivers at all. The main lights actually came
from motorcycle fog lamps. I always saw some moving shadows on the streets from
passing motorcycles lights, like phantoms. Perhaps, this may be an illusion,
which reflected the illumination of white sand. We felt scared because the road
was often too secluded with very few vehicles passing by at night. Even adults could
be intimidated, just like kids when facing this situation.
I remember that the Hospital of Phu Yen province had many high rise floors,
which were painted white. The front of the hospital faced the Pacific
Ocean . Around the hospital were also planted with several tall
willow and pine trees and most of the facility areas covered with white sand.
In 1966-67, the hospital had only one large building standing by itself. There
were no residents residing nearby the hospital. According to my young memory, the
hospital was operated by the city to serve its citizens, but it sometimes could
serve the soldiers as well.
The city of Tuy Hoa at night was very quiet. The beach of Tuy Hoa
had long strips of flat white sand, but did not attract many visitors because it
was situated next to the famous beach
of Nha Trang . Other reasons could be that the country was
still at war and people were unlikely to travel or take a vacation. On one occasion
at sunset, I spotted a navy ship landing on the beach with a large group of
combat soldiers, who carried guns and ammunition on their bodies. There were only
a few civilians who visited the beach and stood by watching around the hospital.
Speaking about food, the City of Tuy Hoa also had many
great dishes, like oysters (blood cockle) grilled on charcoal, which were sold at
kiosks on the street in the evening. Just eat it one time and you would never forget
about the taste. I watched some guys drink “Beer 33”. They sipped the juice of oysters,
dashed with a little salt/pepper and lemon juice. They looked very enjoyable in
life, even during the war. The soldiers, who were usually stationed at Tuy Hoa,
probably still remembered this dish.
Along the Central Coast ,
there were also a lot of sand dunes. Walking on the sand, your feet would get stuck
in it and possibly get sun burn, like being in the desert. These memories were probably
simple, but today, I would like to write something about it to remember the
place I used to live in.
Living
in the City of Tuy Hoa a second time (not for long),
my dad transferred again to the Hospital
of Bien Hoa . At this hospital, my father worked together with
Australian and American doctors to learn about the Western medical style. One
Australian doctor gave him a boomerang. Some American physicians gave him a bottle
of whisky on one Christmas Holiday. They often drank Budweiser together in their
farewell parties.
However,
the most important thing about the City of Bien Hoa
was that it was close to Saigon , the city where
his parents lived. Except for the city of Saigon ,
there was no other place like the Training Area of Duc My and the City of Tuy Hoa where I had many great
memories during my childhood.
Despite
living there for a short period of time and understanding a little bit about
the environments, the image of the Vietnamese Rangers who belonged to the ethnic minority people, were truly nice
people. They lived
in such a free way, not worrying about anything. They spent whatever of their soldier
wages they earned, almost immediately.
The best
thing about them was that they served their country bravely, fearless and not
afraid to die at all. The Vietnamese Rangers sacrificed their lives a lot during
the Vietnam War. They deserve to be honored as National Heroes!
My
father served at the Hospital of Bien Hoa for about 3 years, then transferred to the
National Institute of Rehabilitation, which was located at 70 Ba Huyen Thanh Quan Street , District
3, Saigon . There, he served as a Chief Nurse
and assisted in the function of false limb replacements for disabled Veterans. He
also served sick children born with birth defects with his dignity and enthusiasm.
He remained in service for some time until after the event of April 30, 1975
and got laid off the job.
In the
summer of 1991, I sponsored my family to immigrate to America and they decided to settle in Southern California , where many of my father’s relatives
resided.
More
than 10 years later, my dad was contracted with cancer disease. It was probably from drinking bad water with a
lot of mosquito malaria or contact with wounded soldiers during their surgery
with the lack of disinfection when he was a combat medic. He died in October
2003 in Southern California .
Today,
I have a chance to write a story to thank my father, who often brought us along
through the impoverished central highlands of Vietnam and lived closer with some of
the soldiers in the Army of the Republic of
Vietnam (ARVN), for
understanding their suffering, witness their struggles and sympathize their tremendous losses during the Vietnam War.
Note: ARVN stands for the Army of the Republic of Vietnam .
Nhớ Hay Quên Kỷ Niệm Thời Chinh Chiến
Darren
Thăng
LTG: Ghi lại truyện người cựu phi công
khu trục qua nhận định khách quan và tôn trọng ý kiến cá nhân. Vinh danh
các Hoa Tiêu KLVNCH đã vĩnh viễn ra đi trong thương tiếc…
Hễ mỗi lần đi làm trễ vào lúc 7:42 sáng, thì y như rằng lại
gặp người đàn ông lớn tuổi Á Đông ấy. Đó là giờ ông ta tan sở, sau một ca đêm
(shift graveyard) làm mệt mỏi. Ông ta lừ thừ đi bộ chậm rải băng qua một đại lộ
(Boulevard) rộng và dài để sang bên kia lề đường đứng đón xe bus đi về hướng Nam
thành phố định cư. Khu vực đó là nơi nhà trọ của ông về nghỉ ngơi và dưỡng sức,
để rồi chiều tối lại khăn gói quả mướp lên đường đi “cày” trả nợ cơm áo. Ông
chỉ di chuyển bằng xe bus hay subway (xe điện ngầm) vì không lái được xe hơi.
Cũng chẳng thấy thân nhân hay bạn bè của ông đưa đón bao giờ cả. Vài lần thấy
ông trò chuyện đôi lời với các bạn đồng nghiệp người Mỹ Đen. Họ cũng đi xe bus
như ông thôi. Hầu như chẳng mấy người da mầu nầy có xe riêng, vì lần nào cũng
thấy họ lũ lượt đi xe bus chung với nhau.
Hắn biết
ông ta đã gần 10 năm, qua nhiều lần đón xe bus chung như vậy. Chặng đường
ông đi về nhà vào ban sáng là lúc hắn đi làm. Và chặng đường ông đi làm
sớm vào ban tối là lúc hắn đi về nhà. Nó trái ngược thời giờ với nhau,
giống như mặt trời và mặt trăng vậy. Vài năm trước có lần chào hỏi xã giao nên
được biết tên ông (qua đồng nghiệp người Mỹ thường gọi cả họ lẫn tên là Long
Lê). Ông là cựu phi công phản lực cơ F-5 hay khu trục cơ A-1 Skyraider thuộc
phi đoàn 518/Phi Long của Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa. Phi Đoàn nầy có
khá nhiều anh hùng nổi tiếng như: Trung Tá Phạm Phú Quốc, Đại Úy Trần Thế Vinh,
Thiếu Tá Nguyễn Gia Tập và Thiếu Tá Trương Phùng đã vị quốc vong thân.
Một nhóm phi công thuộc phi đoàn 518/Phi Long
chụp vào đầu năm 1974.
(Người thứ hai ngồi hàng đầu từ trái sang phải,
là nhân vật trong truyện).
|
Ông Long là người ít nói và giới hạn giao thiệp xã
giao. Có lẽ chẳng bao giờ ông tham dự bất cứ hội đoàn cựu quân nhân Việt
Nam Cộng Hòa (VNCH) hay không quân Việt Nam ở địa phương? Ông cũng
không biết Không Lực Việt Nam Cộng Hòa (KLVNCH) có website riêng mà chỉ nghe
nói đến? Hay ông muốn quên đi cái quá khứ một thời vang bóng? Không
bao giờ ông tiết lộ cấp bậc lúc còn là pilot cả. Một lần vui miệng ông bật
mí biệt hiệu trong phi đoàn thường gọi thân thương là: “Long Râu”. Nhưng
bây giờ chẳng còn thấy râu đâu nữa, vì thời oanh liệt đời phi công bay bướm,
nay còn đâu…
Lần khác
hỏi ông có hay giao thiệp với các phi đoàn bạn cùng đóng ở căn cứ Biên Hòa
không? Ông trả lời hơi hách một chút:
- Không, phi đoàn nào chơi với phi đoàn đó!
- Thậm chí
pilot không bao giờ trò chuyện với lính không quân thường nếu không có chuyện.
Ông Long ở
lại quê hương sau ngày 30 tháng 4, năm 1975 và đi học tập cải tạo. Đôi
lúc hiếu kỳ hỏi ông:
Trong tù
bọn cán bộ có hành hạ đánh đập mấy chú không?
- Ít thấy
bao giờ nếu không phạm lỗi.
Hắn tự nhủ
làm gì có loại người cộng sản tốt như thế trên cõi đời này?
Trong thời gian ông đi “cải tạo” thì vợ ông và 3 con nhỏ đi
vượt biên trót lọt với một người đàn ông khác. Họ đến định cư ở thành phố
Alhambra gần Los Angeles , California .
Các con của ông nay đã công thành danh toại và tất cả đều lập gia đình.
Người con gái lớn là một luật sư. Còn hai cậu con trai cao ráo có lẽ là
kỹ sư hay Computer Software Programmer gì đó?
Ông Long qua Mỹ một mình theo diện HO vào năm 1990, lúc 47
tuổi. Ban đầu ông cũng định cư ở thành phố Alhambra
gần Los Angeles .
Nhưng có lẽ người vợ cũ đã xa mặt cách lòng quá lâu hay người mới đối xử với bà
tốt hơn bao năm qua, nên bà không trở lại với ông nữa? Khoảng một năm sau
thấy vô vọng, ông bèn dọn sang một thành phố miền Đông Hoa Kỳ và ở vậy mình
ên tới giờ? Hàng ngày ông ăn chay niệm Phật và đi làm bình thường.
Nay đã đến tuổi về hưu nhưng vẫn còn hăng hái đi cày.
Vào khoảng 62 hay 63 tuổi ông cho biết là sẽ về hưu non và
dọn về lại California
nắng ấm để cùng xum họp với con cháu. Nhưng mãi vẫn không thấy ông “quit
job” gì cả, vì lâu lâu vẫn thấy ông đứng đón xe bus như thường lệ.
Một lần hỏi ông có biết Anh Hùng Không Quân Trần Thế Vinh
cùng chung phi đoàn 518/Phi Long của Sư Đoàn 3 Không Quân đã gẫy cánh trên vòm
trời Trị Thiên vào Mùa Hè Đỏ Lửa ngày 9 tháng 4 năm 1972? Ông trả lời là
không biết gì về huyền thoại của người Hùng nầy cả? Xoay qua đề tài máy
bay có lúc ông nói là hoa tiêu của phản lực cơ F-5. Lúc thì khu trục cơ
Skyraider? Rồi ông cho rằng phản lực cơ F-5 chính là khu trục cơ
Skyraider? Hay ông chẳng còn phân biệt được hai loại chiến đấu cơ
khác nhau nữa. Thôi thì cứ cho ông đúng. Cho nó dzui dzẻ vậy.
Độ sau nầy lâu lâu tình cờ mới gặp ông đứng đợi xe bus đôi
lần. Ông không còn thiện cảm nữa. Đôi khi như muốn tránh mặt là
đàng khác. Ông biết hắn viết được văn vụng, vì có lần gởi cho ông sáng
tác nói về người lính Việt Nam Cộng Hòa. Không biết lúc đó ông nghĩ sao
về một người đáng tuổi con cháu mà cũng bày đặt viết về lính tráng và chiến
trận? Hay ông cho rằng một thằng con nít trước năm 75, mà nay cũng
muốn viết về Lính ư? Ông hỏi lại đôi lần có hàm ý mỉa mai:
- Còn trẻ
mà sao biết nhiều chuyện về lính tráng quá vậy?
Hắn im lìm
không trả lời nhưng tự nhủ rằng:
- Đây mê
trở thành phi công thời chiến lúc còn niên thiếu.
Có lẽ từ khi nhìn được poster to lớn của Anh Hùng Trần Thế
Vinh treo trước cổng trường La San Hiền Vương ở ngã Sáu Công Trường Dân Chủ,
Sài Gòn vào gần cuối tháng 4 năm 1972. Năm đó hơn 11 tuổi, và còn sưu tầm
nhiều hình máy bay F-4 Phantom của không lực Israel nghinh chiến với Egypt và
Syria (Yom Kippur War) vào ngày 6 tháng 10 năm 1973 nữa. Mấy hình nầy cắt ra từ
các báo Tia Sáng, Điện Tín hay Chính
Luận (trước năm 1975 ở miền Nam ) thì phải?
Mới đây lại gặp ông vào một buổi sáng mùa hè đẹp trời.
Thấy ông vừa ngưng trò chuyện với một người Mỹ Đen làm cùng chung sở, thì hắn
liền bước tới:
- Chào
chú!
Chú có
khỏe không?
Ông Long
trả lời ngắn gọn:
- Khỏe.
Hắn vào đề
ngay lập tức kẻo xe bus đến mau.
Chú còn
nhớ Thiếu Tá Trương Phùng không?
Ngay lúc
đó, ông Long hơi gằn giọng:
- Quên quá
khứ đi.
Hắn nói rõ
về mục đích để ông ta hiểu:
- Cháu có
ý định sáng tác một bài …
Ông ta lập
lại:
- Quá khứ
đã qua rồi. Mình đang sống ở hiện tại mà.
Hắn ngạc
nhiên trước cử chỉ và lời nói của một cựu phi công không màng đến dĩ vãng
nữa. Ngay cả các bạn đồng đội đã hy sinh?
Hắn hỏi
lại:
- Tại sao
vậy?
Ông ta trả
lời không một giải thích:
- Đã trở
thành quá khứ rồi vả lại chú đã đến tuổi về hưu, không còn muốn nhắc đến
chuyện xưa nữa.
Nhưng
không có nghĩa là quên luôn đồng đội của mình đã khuất?
Ông Long
thấy hai xe bus từ đằng xa chạy tới cùng một lúc và có ý thoái lui nên không
muốn đối thoại nữa.
Hắn nói
nhanh:
- Cháu
trọng nể ý chú. Nhưng quả thực chú hơi lạ, so với những người cựu sĩ quan
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) khác.
Ông ta
bước vội vàng về hướng xe bus số 2 đang dừng lẹ ở bên ngã tư lề đường.
Lịch sử đã
sang trang, thời gian trôi mau và con người chóng quên…
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến là tự do của mỗi
người. Quá khứ thật sự không thể trở lại được. Nhưng sống cho cá
nhân mình thì có gì để nói? Ai cũng một lần chết trong đời. Cái hay
của con người là có thể làm được những điều ích lợi cho xã hội mới thực là tốt
đẹp và có ý nghĩa. Đồng đội của anh đã hy sinh hôm qua để cho anh sống
đến hôm nay. Các bạn thương phế binh của anh đó vẫn còn lê kiếp sống đọa
đày và nhọc nhằn trôi theo giòng thời gian…không mảy may một ai thương
xót. Vậy anh đã làm gì cho họ từ khi đặt chân lên mảnh đất tự do để đáp
lại nghĩa ân tình “Chiến Hữu” của họ? Xin hãy nhớ đến họ, dù một năm chỉ
có một lần...
Những kỷ niệm khó quên thời chinh chiến được tường thuật
lại, qua các ngòi bút và hình ảnh của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa (KLVNCH) tựa
như khúc phim chiến tranh khói lửa, hồi hộp pha lẫn nghẹt thở. Quý vị đã
viết lên lịch sử về những phi vụ đánh bom, diệt tăng, yểm trợ chiến trường và
tiếp vận căn cứ cho QLVNCH. Đó là tài liệu quý giá để đời cho thế hệ trẻ
mai sau. Nhờ có nhiều bút ký và tùy bút chiến tranh mà thế hệ trẻ đã học
hỏi và biết thêm nhiều tên tuổi của các Anh Hùng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa,
như chưa một lần nghe qua… Hình ảnh của các anh hào hùng và dũng cảm quá.
Nói đến hoa tiêu KQVNCH là nói đến đẹp trai, hào hoa và bay
bướm. Có lúc vào sinh ra tử trên chiến trường thì cũng có lúc giải trí,
văn nghệ và nhẩy đầm xả láng. Vui chơi đêm nay cho quên đi phiền muộn ngày mai,
vì có chinh nhân ra đi và sẽ không quay về…Binh chủng Không Quân VNCH được mệnh
danh là lãng mạn, đa tình và đa cảm làm cho nhiều “em” đẹp tuyệt vời mê mệt các
đấng hoa tiêu thời chiến. Nên mấy chàng sinh viên cao ráo có diện mạo
bảnh trai thích đăng lính làm phi công?
Không Lực Việt Nam Cộng Hòa đã mất biết bao phi công tài hoa
trong cuộc chiến Việt Nam .
Tên tuổi của các anh Phạm Phú Quốc, Trần Thế Vinh, Lưu Kim Cương, Phạm Văn
Thặng, Trương Phùng và phi hành đoàn gunship AC-119K đã gẫy cánh trong phi vụ
cuối cùng bảo vệ thủ đô Sài Gòn vào ngày 29 tháng 4 năm 1975 v.v., sẽ được lưu
danh muôn thuở. Ngoài ra còn có biết bao anh tài khác đã không được ai
nhắc nhở đến… Xin vinh danh và tri ân các Hiệp Sĩ Không Gian đã vị quốc vong
thân. Hãy nhớ và viết tiếp về những kỷ niệm vui, đẹp và oai hùng của đời
phi công thời chiến cho thật hay và hấp dẫn. Bravo Cánh Thép với dàn pháo
bông nổ vang trời ngợi ca trang sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã và đang sống
lại một thời kiêu hãnh…
Chỉ lãng quên của người còn sống
Mới làm mờ hình bóng kẻ ra đi...
Đại Tá: Lưu Kim Cương
Hy Sinh:
ngày 6 tháng 5, 1968
Phi trường: Tân Sơn Nhất.
|
Thiếu Tá: Trương Phùng
Gẫy cánh:
ngày 29 tháng 4, 1975
Vòm trời: Sài Gòn.
|
Thiếu Tá: Phạm Văn Thặng
Gẫy cánh: ngày 26 tháng 5, 1972
Vòm trời: Kontum.
|
Phi hành đoàn
gunship AC-119K
Gẫy cánh:
ngày 29 tháng 4, 1975
Vòm trời: Sài Gòn.
|
Chú
Thích:
Ông Long
về hưu lúc 66 tuổi(+) vào cuối Hè năm 2010 (theo lời bạn đồng nghiệp người Mỹ
của ông cho biết). Hiện nay ông chung sống với con cháu ở thành phố Alhambra gần Los
Angeles , California .
Darren
Thăng.
Mê Thần Tượng
Darren Thăng
LTG: Tưởng nhớ Đại Úy phi công Trần Thế Vinh, đã
vị quốc vong thân trên vùng trời Trị Thiên ngày 9 tháng 4 năm 1972.
Trong đời, ai ai cũng mơ
mộng một thần tượng. Đôi khi không những là một, mà hai hay ba nữa không chừng…
Nếu như được phỏng vấn, xin cho biết thần tượng của bạn là ai? Vậy bạn đã sẵn
sàng để trả lời câu hỏi này chưa?
- Chắc có nhiều hứng thú để trả lời câu hỏi này lắm nhỉ!
Để người viết đoán thử xem nào?
- Nếu là con gái chọn có lẽ là Brad Pitt, ca sĩ trong và
ngoài nước hay một tài tử Hàn Quốc đẹp trai nào đó…
- Nếu là con trai chọn thì nhiều lắm! Kể sơ sơ ca sĩ Việt Nam
không thôi phải nói đến sexy cỡ Hồ Lệ Thu hay Minh Tuyết chẳng hạn…còn tài tử
Hàn Quốc, Hồng Kông, Mỹ, Pháp thì nhiều vô số kể v.v.
Riêng người viết cũng “mê” nhiều thần tượng lắm. Nhất là mấy
em “lẹp” một chút mới ác chứ! Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này, chỉ nói về
sự kính phục người mà mình coi là thần tượng mà thôi. Mạn phép được chia sẻ với
quý độc giả ở đây, không có ý nói về sở thích riêng tư. Thần tượng của người
viết không phải là ca sĩ, nghệ sĩ hay văn sĩ “đếch” dzì cả, mà là một người
hùng đã khuất. Người đó là một sĩ quan Không Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hân hạnh
được giới thiệu… Đại Úy phi công Trần Thế
Vinh.
Nói đến Đại Úy phi công Trần Thế Vinh của Không Lực Việt Nam
Cộng Hòa, có lẽ rất nhiều quý vị độc giả sinh trưởng ở miền Nam trong thập niên
70 và sau này không biết đâu. Ngay nhiều người lính chế độ cũ cũng chưa hề nghe
qua? Nếu ai sinh trưởng ở miền Bắc vào thập niên 50 hay 60, cũng coi như “điếc”
luôn, vì anh ta thuộc bên đối nghịch, đã hy sinh trên chiến trường Trị Thiên
vào Mùa Hè Đỏ Lửa, tháng tư năm 1972. Thật ra người viết cũng không biết gì về
Đại Úy phi công Trần Thế Vinh cả. Tiếc thương anh qua sự tình cờ thấy được tấm
hình bích chương của anh phóng lớn treo cùng chung với vài người hùng khác,
trước cổng trường La San Hiền Vương ở Ngã Sáu Công Trường Dân Chủ. Nơi người
viết đang theo học cấp II năm đó. Hình ảnh của anh cũng được treo trước Tòa Đô
Chánh Sàigòn (ngang rạp Rex), vào đầu tháng 5 năm 1972. Bây giờ cộng sản đổi
thành Trụ Sở Ủy Ban Nhân Dân thành phố.
Mùa hè năm 1972, Cộng Sản Bắc Việt mở ba mặt trận lớn ở Bình
Long, Kontum và Trị Thiên với dã tâm thôn tính miền Nam . Họ chọn ba chiến trường chính
làm “thí điểm” với hơn 125.000 chủ lực quân tham chiến và nhiều vũ khí tối tân
hiện đại như đại pháo 122 ly, 130 ly, hoả tiễn tầm nhiệt (SA-7) và tăng T-54,
vừa nhận viện trợ từ Cộng Sản Nga và Trung Cộng. Đôi dép râu đi đến đâu là dân
chúng miền Nam kinh sợ đến đó. Ai cũng bỏ nhà cửa, ruộng vườn và gồng gánh nhau
chạy cho lẹ, kẻo bị bắt mang đi bắn như ở Huế thì bỏ bu. Năm đó, cả miền Nam
Việt Nam xôn xao lo âu như đang sống trong dầu sôi lửa bỏng vậy. Thấy trên
khuôn mặt mấy thằng bạn chung lớp có cha là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa lâm
chiến, hay rầu rầu và khóe mắt rướm lệ khi nghe được hung tin!
Cộng sản Bắc Việt phát động chiến tranh với ý đồ lấn đất
giành dân và để thiết lập Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt
Nam (Việt Cộng), tại những vùng chiếm được như thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị
trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Hầu gây tiếng vang chính trị quốc tế vì chúng có đất
để cắm “dzùi” và áp lực Hoa Kỳ tiến hành đàm phán ký kết hiệp định Paris, rút
quân đội ra khỏi miền Nam. Hoa Kỳ đánh đổi quyền lợi bằng cách dâng cỗ miền Nam
Việt Nam
cho cộng sản “xơi”.
Quảng Trị là tỉnh địa đầu giới tuyến 17 của Việt Nam Cộng Hòa
năm 1972, nên con cháu già Hồ vượt sông Bến Hải tấn chiếm dễ dàng. Chúng mang
“pháo đùng” với chiến xa “cua thui-54” ra, để lấy vũ khí đè người. Ê, cái đám
răng đen mã tấu kia, đừng có hòng nghe mi! Ngươi phải bước qua xác các chiến sĩ
Việt Nam Cộng Hòa can trường mới lấy được mảnh đất tự do này!
Trước tình thế nghiêm trọng, Phi Đoàn khu trục cơ 518 Phi
Long thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa nhận lệnh tăng phái cho mặt trận Trị
Thiên vào ngày thứ Bảy mồng 1 tháng 4 năm 1972. Phi đoàn có nhiệm vụ không yểm
cho các cánh quân bạn đang chống đỡ cộng sản xâm lăng tại vùng địa đầu giới
tuyến. Trần Thế Vinh là một trong những hoa tiêu tài ba tình nguyện tham dự
chiến trường, cho dù bất kể thời tiết xấu như thế nào và phòng không địch luôn
đan lưới kín bầu trời.
Trần Thế Vinh như
bao lớp trai thời ly loạn trong chiến tranh Việt Nam , đành xếp áo thư sinh để thi
hành nghĩa vụ công dân. Vinh sinh ngày 27 tháng 9 năm 1946 tại Ninh Cường, Nam
Định, Bắc Việt. Cùng với gia đình di cư vào Nam năm 1954. Anh gia nhập không
quân cuối năm 1964, khi đang theo học đại học năm thứ nhất Luật Khoa. Sau khi
mãn khóa hoa tiêu quan sát tại
quân trường Nha Trang, Trần Thế Vinh được gửi theo học khóa phi công khu trục
AD-6 tại Hoa Kỳ. Anh tốt nghiệp thủ khoa khi cùng học với nhiều phi công ngoại
quốc khác. Trần Thế Vinh được coi là một phi công ưu hạng (nguồn Cánh Thép).
Không
Lực Hoa Kỳ có ưu thế về chiến đấu cơ trên thế giới. Luôn chủ động trên các
chiến trường Việt Nam , Iraq
và A-Phú-Hãn. Không Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng được tân trang máy bay để đối
phó với cộng sản phương Bắc. Ngược lại, Cộng Sản Liên Sô và Trung Cộng có ưu
thế về đại pháo, hỏa tiễn tầm nhiệt và chiến xa hạng nặng, nên cung cấp các
loại vũ khi tối tân cho Cộng Sản Bắc Việt. Tại chiến trường Việt Nam năm 1972,
Không Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ được trang bị khu trục cơ Skyraider của Mỹ để
lại từ thời Đệ Nhị Thế Chiến và chiến tranh Triều Tiên. Tuy lỗi thời so với
chiến tranh hiện đại, nhưng vì là của chi viện nên có sao thì chơi vậy.
Huấn luyện viên Hoa Kỳ khen ngợi hoa tiêu Việt Nam rất điêu
luyện về khu trực cơ với kinh nghiệm cả ngàn giờ bay không yểm.
Vì liên tục yểm trợ cho quân bạn trên khắp chiến trường nên
Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã trưởng thành trong khói lửa. Tuy khu trục cơ
AD-6 (một chỗ ngồi) với tốc độ bay chậm so với phản lực cơ, nhưng lại rất hữu
hiệu trong các phi vụ diệt tăng địch vì hoa tiêu có thể chúi máy bay từ trên
cao độ xuống (dive bomb) thật thấp để oanh kích mục tiêu và bỏ bom chính xác.
Phi cụ xử dụng hệ thống bán tự động (manual) và nhắm bằng mắt thường để đánh
bom. Không như các chiến đấu cơ tối tân F-15E của Hoa Kỳ hiện nay, được trang
bị hoàn toàn bằng điện tử hiện đại như “khóa điểm mục tiêu và bắn hạ”.
Tưởng tối tân là ngon nha, vậy mà phản lực vượt âm thanh
của Hoa Kỳ vẫn bị rớt đều đều và Ngũ Giác Đài đổ lỗi vì lý do kỹ thuật (sic).
Phi cơ “chùa” từ thuế dân Mẽo, có thằng phi công mũi lõ nào “ke” đâu! Tuy hoa
tiêu Việt Nam
nhỏ con hơn so với mấy anh gà tồ, nhưng rất thông minh, tài ba và gan dạ hiếm
có nên rất nhiều bài viết ca ngợi các “Hiệp Sĩ Không Gian”. Những người đi mây
về gió, đã tạo lên bao chiến tích huy hoàng cho Không Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày Chủ Nhật mồng 2 tháng 4 năm 1972, Trần Thế Vinh thực
hiện phi vụ đầu tiên tại vùng giới tuyến, anh hạ 5 “cua sắt T-54” của Bắc Quân
ở phía bắc Đông Hà. Phi cơ của anh bị trúng đạn phòng không đại liên 12 ly 7
bên cánh trái nhưng anh trở về căn cứ an toàn. Liên tục 5 ngày tiếp theo, ngày
nào Đại Úy Vinh cũng cất cánh bay và ngày nào cũng bắn hạ được tăng địch.
Tổng cộng 6 ngày từ mồng 2 đến mồng 7 tháng 4, 1972 (kiểm
chứng lại, không phải là 3 ngày), anh “dớt đẹp” tất cả 20 “cua sắt” của cộng
quân. Nhiều lần phi cơ bị trúng đạn phòng không, nhưng anh vẫn trở về phi
trường Đà Nẵng an toàn.
Để động viên tinh thần chiến đấu của quân đội, Bộ Tư Lệnh
Không Quân/VNCH đã phối hợp với Cục Tâm Lý Chiến thực hiện một chương trình
truyền hình về các chiến công của binh chủng. Ngày thứ Bẩy 8 tháng 4 năm 1972,
Đài Truyền Hình Việt Nam ,
trong chương trình "Tường Thuật Chiến Trường", vị thiếu tá phi đoàn
trưởng Phi Đoàn 518 đã giới thiệu Đại úy Trần Thế Vinh là phi công anh dũng và
xuất sắc nhất của đơn vị. Ông hứa với khán giả rằng trong tuần lễ kế tiếp sẽ
đưa Đại Úy Vinh về giới thiệu trực tiếp với công chúng. Trong khi mọi người hân
hoan và nóng lòng chờ đợi được thấy mặt viên phi công anh dũng, một mình
trong sáu ngày bắn hạ 20 chiến xa cộng quân tại Quảng Trị, thì cuối cùng anh
cũng gẫy cánh đại bàng.
Lúc 8 giờ sáng Chủ nhật ngày 9 tháng 4 năm 1972, phi tuần
trưởng Đại Úy Trần Thế Vinh cùng với một khu trục cơ khác cất cánh từ phi
trường Đà Nẵng trong thời tiết rất xấu và trần mây rất thấp. Đại úy Trần Thế
Vinh và đồng đội thi hành phi vụ khẩn cấp để giải vây cho căn cứ Phượng Hoàng
lúc ấy do Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến phòng thủ đang bị cộng quân vây chặt
và tấn công dữ dội bằng pháo binh, chiến xa và bộ binh. Tầm nhìn xa bằng mắt
thường từ khu trục cơ không quá 50 mét khiến Đại Úy Vinh đã quyết định áp dụng
chiến thuật táo bạo là cả hai phi cơ bay rất thấp gần đến mục tiêu mới bốc lên
cao và từ đó lách mây đâm xuống oanh kích địch quân để tạo yếu tố bất ngờ.
Chiến thuật gan dạ nhưng đầy liều lĩnh này đã khiến địch
quân không kịp trở tay và các chiến xa cộng quân đành phơi mình làm mục tiêu ăn
bom. Tất cả có 4 chiến xa trúng bom từ phi cơ của Đại Úy Vinh, ngay khi anh vừa
đâm bổ xuống. Tuy nhiên vì xuống quá thấp, phi cơ của anh đã bị trúng đạn phòng
không và bốc cháy không kịp bay ra khỏi khu vực nguy hiểm. Hoa tiêu bạn báo cáo
phi cơ của Đại úy Vinh đâm xuống đất và không thấy có chiếc dù nào bung ra cả.
Đại Úy Trần Thế Vinh, chim thiêng đã bỏ trời xanh, bỏ người
tình, bỏ bạn bè… Chim Thiêng đã về ngàn… Vinh đã anh dũng hy sinh đền nợ nước
khi tuổi đời chưa tròn 26. Anh ra đi trong sự xúc động của cả nước, từ dân đến
quân, cả trong lẫn ngoài quân chủng. Chiến tích một mình trong vòng một tuần lễ
hạ được 21 chiến xa địch đã khiến anh trở thành một huyền thoại có thực của
Không Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngay sau đó, chân dung Đại
Úy Trần Thế Vinh xuất hiện trên những tấm bích chương cổ động nhằm nâng cao
tinh thần chiến đấu của quân dân được trưng bày khắp mọi ngả đường trên toàn
quốc. Chưa bao giờ hình ảnh và tên tuổi một phi công được nhắc đến với lòng
tiếc thương yêu mến mãnh liệt như thế! Đại Úy Trần Thế Vinh sống mãi trong Quân
Sử hào hùng của Không Quân và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa! (nguồn Cánh
Thép).
Sau chiến thắng Mùa Hè Đỏ Lửa của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa vào giữa tháng 9 năm 1972 (cổ thành Đinh Công Tráng), mấy thằng bạn nhóc tì
từ 9-11 tuổi chúng tôi thường hay nói đùa với nhau rằng, lớn lên tao sẽ theo
gót Đại Úy phi công Trần Thế Vinh cho mày xem! Thằng nào thằng nấy đều mơ ước
trở thành hoa tiêu thời chiến. Thằng này hỏi thằng kia:
Tại sao mày lại thích trở thành phi công?
- Tại vì tao muốn “đẹp giai”, tài ba và anh hùng như anh
Trần Thế Vinh dzậy… mà có nhiều em mê nữa kìa!
Tên này vặn lại:
Bộ tụi mày không thích “ghệ” sao?
Cả đám nhao nhao:
Thích…thích chớ! Chúng ta sẽ noi gương Đại Úy Trần Thế
Vinh!
Từ dạo đó cho đến ngày tàn cuộc chiến, mấy thằng bạn trong
xóm sống gần phi trường Tân Sơn Nhất, hễ mỗi lần nhìn thấy chiến đấu cơ F5E,
A37, Skyraider hay trực thăng UH1 bay ngang qua là thằng nào thằng nấy đều bỏ
dở cuộc chơi đánh bi đánh đáo hay tập trận giả trong nghĩa trang tương tế gần
nhà (bây giờ là chợ Phạm Văn Hai) để cùng nhau nhìn lên bầu trời. Có lẽ mỗi
thằng đều theo đuổi suy nghĩ riêng tư cho mình…
Vì sống gần phi trường Tân Sơn Nhất cho nên mấy nhóc tì tụi
tui hay thấy các phi công Việt Nam Cộng Hòa mặc áo bay và mang túi phi hành
chạy xe gắn máy Honda qua lại. Ngày nào cũng thấy mấy em nữ sinh cỡ 17-19 tuổi
xinh gái và đẹp vô ngần (nhóc con mà đã biết nịnh đầm rồi phải hôn), mặc mini
zíp ngắn, mang giày cao gót đi bộ đến thăm các chàng trong xóm. Em nào đùi cũng
dài, bắp chân thon thon trắng trẻo và mặt vênh lên trông thật dễ “ghét”! Nhìn
mấy nàng biết ngay đang cúp cua để đi chơi với bồ. Hoặc đi ciné, ăn kem hay
uống sinh tố. Có em còn nũng nịu bên người “iêu”, lấy tay đánh vào bả vai chắc
nịch đòi bắt đền…vì anh trễ hẹn! Mấy thằng nhóc chúng tôi nhìn họ đi ngang qua
mà trầm trồ...nuốt nước miếng ừng ực. Có thằng nói lớn:
- Bảnh ghê! Có ngày tao cũng được như dzậy bây ơi!
Thằng khác chọc lại:
- Để rồi xem… mày có được như thế không?
Huyền thoại về Đại Úy phi công Trần Thế Vinh được nhà văn
Ngọc Thủy ở San Jose bên Cali biên soạn: “Trần Thế Vinh và Phi Vụ Cuối
Cùng” phát hành vào năm 2003. Cô sưu tầm các bài viết, thơ và tài liệu về anh.
Giáo sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh giới thiệu sách, nhưng người viết chưa đọc
qua!
Nhạc Sĩ Trầm Tử Thiêng cũng sáng tác một bản nhạc dành
riêng cho Đại Úy phi công Trần Thế Vinh vào năm 1973: “Vinh Thăng Cho Một Loài
Chim”. Mỗi lần nghe trên youtube, như xót xa về dĩ vãng!
Anh bay lên cõi không hận thù
Trần Thế Vinh vĩnh biệt ngàn thu...
Trần Thế Vinh vĩnh biệt ngàn thu...
Trần Thế Vinh mất đã 40 năm. Tính thời gian anh khuất đã
lâu, nhưng nhẩm tuổi của anh thì độ 65 tuổi(+). Lứa tuổi bắt đầu về hưu ở
Mỹ.
Miền Nam rơi vào tay cộng sản đúng 3 năm sau, ngày Trần Thế
Vinh vĩnh viễn ra đi… lại là tháng Tư. Suy gẫm thấy anh thật “may mắn”! Sống
hùng sống mạnh nhưng không sống dai để chứng kiến cảnh đổi đời ô trọc. Phần
đông sĩ quan chế độ cũ phải đi tù từ 5 - 10 năm. Có người phải bỏ xác trên rừng
núi Việt-Bắc. Một số ít vượt thoát ra hải ngoại năm 75, tháng năm hoài niệm về
cuộc chiến đã qua. Chỉ có vài tên phi công nằm vùng, ăn cơm quốc gia thờ ma
cộng sản như gã Nguyễn Thành Trung (mang tên giả) là vui. Tên này và con cháu
hắn đáng khinh bỉ. Ôi, bao năm chinh chiến điêu linh trên quê hương! Viễn ảnh
Việt Nam Hoà Bình chỉ là mơ tưởng, nghèo đói và lạc hậu…trong thiên đàng cộng
sản mà thôi!
Tài Liệu Tham Khảo:
Anh Hùng Trần Thế Vinh (Cánh Thép).
Người Lính Miền Nam
Darren Thăng
Tháng Tư, trời Nam, Biệt Cách Dù
Sa cơ, ngã gục, thật liệt
oanh
Ai từng ghé qua Việt Nam Palace vùng Đông Bắc Mỹ đều biết bà Hà,
là Giám Đốc điều hành nhà hàng. Tuy nhiên, ít người biết đến ông Hà vì
ông không trực tiếp đứng ra quản lý và ít khi có mặt. Bà Hà tướng cao
người đôn hậu, nhưng ông Hà thì ngược hẳn, vóc dáng ông gầy và nhỏ con so
với kích thước trung bình của người đàn ông Việt Nam .
Năm 1990 khi đến định cư ở thành phố này,
lớp trẻ chúng tôi hay lai vãng tới nhà hàng Việt Nam Palace vào những ngày cuối tuần hay dịp
lễ. Thấy bà Hà đứng ở quầy tính tiền hay lay hoay phía sau nhà bếp phụ
giúp. Còn ông Hà thường ngồi một mình đăm chiêu ở một góc bàn, lâu
lâu viết lách gì đó? Ông ít nói và giọng ôn tồn nhỏ nhẹ của người miền
Trung. Đôi lần thấy ông chào khách quen hay mỉm cười xã giao lấy lệ.
Một lần ai đó cho biết ông Hà từng là cựu
sĩ quan Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa? Nhưng đây không tin cho
lắm. Người này nói thêm là trước 75, tướng ông mập mạp và cao ráo
hơn? Rồi bẵng đi một thời gian, chúng tôi không còn lui tới nhà hàng Việt Nam
Palace thường xuyên và
đôi lần đến thì lại không gặp ông nữa.
Câu chuyện ngày đó tưởng chừng như đi vào
quên lảng…
Một ngày đẹp trời mới đây, tình cờ gặp lại
“cố nhân” đi bộ trên phố.
- Chào
chú!
- Chào
cháu!
Xã giao qua loa bất chợt nhớ lại:
- Cháu có một thắc mắc …xin phép hỏi chú?
- Được.
Nghe nói chú là cựu sĩ quan Nhảy Dù của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày trước?
- Không! Chú thuộc Lực Lượng 81 Biệt
Cách Nhảy Dù.
Ông khẳng khái trả lời làm đây ngạc nhiên
vì người lính Biệt Cách Dù thường trang bị nặng nề súng đạn, lựu đạn, mìn, dao
găm, bidon nước, lương thực và đồ dùng cá nhân cho mỗi lần đi toán. Có
toán viên phải đeo theo máy truyền tin liên lạc, địa bàn, đèn pin và hỏa hiệu.
Trọng lượng tính ra khoảng 35 - 40 lbs(20 kilo)? Cỡ ông ta làm sao mang
nổi? Nhưng lỡ hỏi rồi thì phải tiếp tục như thể mình cũng là lính
vậy.
Cháu được biết Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81
Biệt Cách Nhảy Dù là Đại Tá Phan Văn Huấn. Người hùng mặt trận An Lộc là
Thiếu Tá Phạm Châu Tài và cũng là Chiến Đoàn Trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật
bảo vệ thủ đô Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Ý nói ra xem phản ứng của ông thế nào? Có
phải ông là “thứ dữ” của binh chủng này ngày xưa không? Đồng thời nhắc
tên vài cựu sĩ quan thuộc Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật/Bộ Tổng Tham Mưu ở địa
Phương và hiện cư ngụ ở Nam California thì thấy ông cũng biết họ.
Trước khi chia tay ông tâm sự về mẩu truyện
ngắn “Núi Vẫn Xanh” (1), nói về số phận của một toán thám sát Biệt Cách
Dù gồm sáu người đi thi hành nhiệm vụ vào giờ thứ 25 trước ngày 30 tháng 4 năm
1975. Toán đụng nặng với một tiểu đoàn Việt Cộng đang tiến về
Sàigòn. Toán trưởng gọi phản lực cơ oanh tạc đám con cháu Bác tơi bời.
Nhưng riêng toán đã phải trả giá đắt, bốn toán viên bị thiệt mạng nằm lại
trên đồi cùng chung với xác địch, hai người sống sót còn lại phải băng
rừng lội suối về đến quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa để rồi biết được miền Nam rơi
vào tay cộng sản đã hơn 5 ngày sau...
“Núi Vẫn Xanh” là một sáng tác của Hà Kỳ
Lam, một tác phẩm bình dị nói lên nỗi cô đơn cùng cực, “mãnh hổ nan địch
quần hồ” và sự can trường của người lính miền Nam đã coi nhiệm vụ trao phó hơn
cả tính mạng bản thân.
Thực tế câu chuyện người lính Mũ Xanh,
chẳng được sự đãi ngộ khoan hồng của “cách mệnh” khi buông súng đầu hàng ở quận
Tân Uyên (trước thuộc tỉnh Biên Hòa) vào ngày mồng 5 tháng 5 năm 1975, như
chính sách “lèo” của chúng rao rêu. Các anh bị bắt giam, bỏ đói và cuối cùng
mang đi xử bắn một cách tàn nhẫn rồi thả xác trôi trên sông Đồng Nai. Tất cả là
17 người lính miền Nam
bị hy sinh oan uổng sau khi chiến cuộc đã kết thúc (2). Một toán viên may
mắn sống sót được một cặp vợ chồng già trong làng cứu vớt và che giấu.
Trong nhóm bị sát hại có người sĩ quan tên là Tuấn, ngẫu nhiên trùng tên với
nhân vật chính trong truyện của Hà Kỳ
Lam?
Hành động tiểu nhân của Việt Cộng với dã
tâm trả thù đê hèn người lính miền Nam thuộc đơn vị ưu tú, thiện chiến
nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thật bỉ ổi. Trong thời chiến, cứ hai tên bộ
đội cộng sản mà “chọi” với một người lính Biệt Cách Dù là chúng bị đi
đứt. Không tài nào chúng địch nổi binh chủng thiện chiến Biệt Cách Dù với
đầy đủ hỏa lực, nên giờ đây các anh hùng bị sa cơ thì chúng ra tay hành quyết
cho bỏ ghét.
Những tên du kích Việt Cộng “giết người”
tháng 5 năm 1975, bây giờ có lẽ là những tên bí thư, huyện ủy và cán bộ chức
quyền của huyện Tân Uyên (nay thuộc tỉnh Bình Dương), nơi các anh hùng Mũ Xanh
Việt Nam Cộng Hòa âm thầm nghiệt ngã nằm xuống? Lịch sử sẽ phê phán ai
“ác ôn” hơn?
Giả sử ngày mai Trung Cộng (miễn dùng danh
từ Trung Quốc) áp đặt cai trị Việt Nam
như Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam
, thì cán bộ Việt Cộng sẽ mất hết quyền lực? Tài sản tham nhũng bóc lột
của dân, bị tước đoạt. Thậm chí còn bị tù đầy như họ đã từng đối xử với
quân dân cán chính miền Nam .
Nếu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu có câu nói để đời, “đất nước
mất, mất tất cả…”, thì bánh xe lịch sử sẽ ứng nghiệm với cộng sản Việt Nam
trong tương lai. Tiếc thay! Chỉ tội cho dân tộc Việt Nam mãi chìm trong bể “khổ”.
Việt Cộng là phường “xảo trá”, không bao
giờ họ tự “giải thể” vì quốc gia dân tộc. Chỉ khi nào toàn dân đứng lên
“lật đổ” thì mới hy vọng xóa bỏ chế độ độc tài. Lúc đó “đảng ta” sẽ giống số
phận hẩm hiu như lãnh tụ cộng sản Nicolae Ceauşescu của nước Romania, độc
tài Khadafi (Gaddafi) của nước Libya, hay bị truất phế như độc tài Hosni
Mubarak của Ai Cập vậy.
Cho dù chế độ cộng sản có tồn tại thêm một
thời gian nữa, thì chúng cũng sẽ bị khởi tố lên Liên Hiệp Quốc về danh sách tù
“cải tạo” bị sát hại. Vụ hành quyết các chiến sĩ cộng hòa sa cơ không bản
án? Diễn tiến luật pháp chẳng khác gì Trung Cộng, Bắc Hàn và Nam Hàn từng
kiện chính phủ Nhật tự do về vụ Quân Phiệt Nhật đã bắt phụ nữ họ phục dịch nô
lệ “tình dục” trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Việt Cộng có lối chơi thủ tục
đầu tiên, thì người Mỹ hay thích kiện kẻ có tóc, “hẹn gặp ở tòa,
ok!”.
Xin mời quý vị độc giả trở lại câu chuyện
lính Biệt Cách Nhảy Dù ngày 30 tháng Tư…
Ngày 27 và 28 tháng 4 năm 1975, người viết
lúc đó tuy còn nhỏ, nhưng đã chứng kiến những người lính trẻ Biệt Cách Dù mặc
quân phục rằn ri đầu đội beret xanh đứng gác gần bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa, quanh các góc đường Võ Tánh & Công Lý, Nguyễn Minh Chiếu và
Thoại Ngọc Hầu(*), Sàigòn. Cứ 3 hay 4 người một tổ. Lưng đeo M16 hay M18 và
mang nhiều lựu đạn. Mỗi tổ được phân phát khoảng 4-5 khẩu M72 diệt tăng, để dựa
vào chân cột đèn hay ngả trên ba lô.
Vài tổ lại có một cấp chỉ huy Thiếu Úy đi
cùng với người lính mang máy truyền tin. Mọi địa điểm trọng yếu ở các ngã tư,
thấy có một hay hai chiếc xe jeep lùn đậu bên lề đường. Người lính nào nhìn
cũng nghiêm. Họ tuân theo kỷ luật quân đội với nhiệm vụ bảo vệ thủ đô Sài
Gòn. Có anh đứng hút thuốc lá và có anh thì trò chuyện nho nhỏ với đồng
đội. Họ trông rất bình thản như đang đợi “chiến tranh” đến với mình. Trong khi
đó, các tướng tá phe ta và gia đình đang binh kế “tẩu vi” cao bay xa chạy, xe
Jeep và xe hơi chạy ngang vùn vụt trước mặt về hướng phi trường Tân Sơn Nhất
càng nhanh càng tốt.
Mồng 1 tháng 5, một ngày sau khi miền Nam
mất, dân chúng cư ngụ gần bộ Tổng Tham Mưu thấy 4 “cua sắt T-54” bị bắn
cháy ngay ngã ba Lăng Cha Cả. Hai xe tăng T-54 sau này kéo về nằm ụ ở
khoảng đất trống đối diện cổng Phi Long (phi trường Tân Sơn Nhất). Còn hai
chiếc khác được kéo đi đâu để giải tỏa lưu thông thì không biết? Hay có
lẽ Việt Cộng ngại tâm lý dân chúng biết được số lượng thiệt hại của
chúng?
Trong khi đó Biệt đội 817 của Liên Đoàn 81
Biệt Cách Dù chỉ có ít M72 để chống trả? Người viết nhìn thấy màu thép xe
tăng còn mới. Tòa cao ốc 6 tầng sơn màu trắng của quân đội Mỹ để lại (đối diện
Bộ Tổng Tham Mưu) bị bắn cháy đen một mảng lớn. Có lẽ lính Biệt Cách Dù đứng
trên sân thượng phóng M72 xuống và tăng Việt Cộng bắn lên làm hư hại cao ốc
trong lúc giao tranh sáng ngày 30? Sau khi ngưng chiến, dân chúng chứng
kiến quân trang quân dụng của lính vụt bỏ đầy đường, nhưng không thấy xác
người. Không biết những người lính trẻ Biệt Cách Dù đó đi về đâu? Chỉ thấy
nhiều anh lính mặc áo thun hay cởi trần đi chân đất, lầm lủi bước về hướng chợ
Ông Tạ. Vài người trong xóm cho quần áo dân sự hay dúi vào tay ít tiền,
để các anh làm lệ phí về quê. Tình cảnh thật bùi ngùi cảm động!
Gợi lại hình ảnh tháng tư xưa mà thấy
thương cho thân phận người lính thấp hèn. Quê của các anh có lẽ ở tận Cao
Nguyên, miền Trung hay Long Khánh? Các vùng đất xa xôi đã mất vào tay
giặc cuối tháng Ba hay giữa tháng Tư năm 1975? Đáng lý các anh có thể bỏ
đơn vị và trở về xum hợp với gia đình, nhưng tình nguyện ở lại để thi hành
nhiệm vụ cuối cùng của đời chiến binh.
Thi hành nhiệm vụ hay là chết. Người Lính
không quyết định được thắng bại trên chiến trường mà chỉ biết tuân lệnh.
Đúng thế! Người Lính Việt Nam Cộng Hòa ngày cuối tháng Tư, 75 vẫn còn
nặng nợ với quê hương và đồng bào, dù biết mình bị phản bội từ mọi phía. Thực
tế phũ phàng từ các cấp lãnh đạo của đất nước. Vết dao đâm sau lưng chịu
sao thấu!
Miền Nam mất, người dân sống trong chế
độ cộng sản sau 75 đã thấm nỗi đau khổ. Ai cấu kết, nuôi dưỡng và che
giấu Việt Cộng nằm vùng năm xưa? Nay nhiều người là nạn nhân, bị chúng
chiếm đất chiếm nhà. Giờ mới thấy người lính và chế độ nào tốt hơn?
Nếu được cơ hội, có lẽ họ sẽ chọn lại người
lính cộng hòa? Tuy hình ảnh và sắc lính của các anh đã qua đi, nhưng
người dân miền Nam
vẫn luyến tiếc. Họ nhắc lính qua thơ văn, ca nhạc DVD, trên các diễn đàn
websites hải ngoại và vài bài viết của cựu chiến binh miền Nam còn trong
nước.
Riêng lớp trẻ chúng tôi lớn lên sau cuộc
chiến tàn, xin được nói với Người Lính Miền Nam một câu ngậm ngùi rơi lệ: “Cảm
ơn Anh, người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa!”
Tướng Lê Minh Đảo, cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18
Bộ Binh và là người hùng mặt trận Xuân Lộc tháng tư, 1975 có lần nói: “nếu có
kiếp sau, xin được tiếp tục làm người lính Việt Nam Cộng Hòa”. Mạn phép
cùng Thiếu Tướng: “Hãy cho chúng tôi được đầu quân làm người lính Việt Nam Cộng
Hòa, chung với ông nhé…!”
Tài liệu tham khảo:
(1) Núi Vẫn Xanh của Hà Kỳ Lam.
(2) Số phận của 6 toán thám sát của
LĐ81/BCND trong chiến khu D (LĐ 81/BCND và Những Ngày Tháng Tư).
Tài liệu Kiểm Chứng:
Biệt Đội 817, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù của
Thiếu Uý Minh Cui, khóa 28 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
Chú Thích:
(*) Đường Võ Tánh trước 75 (nay là Hoàng
Văn Thụ), Công Lý (đối diện Bộ Tổng Tham Mưu) (nay là Nguyễn Văn Trỗi), Nguyễn
Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng Tuyển) và Thoại Ngọc Hầu (nay là Phạm Văn Hai).
Vài hàng về tác giả:
Darren Thăng còn có bút hiệu là DD-2nd hay
DD-2nd G. Quốc nạn năm 1975, anh chỉ là một thiếu niên.
Anh khởi sự sáng tác từ năm 2007. Vì đam mê đời lính chiến từ khi còn nhỏ, nên
anh sáng tác rất mạnh về QLVNCH. Anh có hơn 10 tác phẩm nói về người lính Việt
Nam Cộng Hòa và thương cảm số phận người Kháng Chiến Quân Việt Nam .
Chân thành cảm tạ độc giả xa gần thương mến tác giả và tác phẩm.
Khoác Áo Chiến Y
Darren Thăng
Dân lao động sống chung quanh rạp ciné Đại
Lợi nằm trên đường Thoại Ngọc Hầu (Phạm Văn Hai) đối diện nghĩa trang Thánh
Minh Tương Tế không xa ngã ba Ông Tạ là bao trước thời 75, đa số gốc gác là
người miền Nam. Họ sống xen kẽ trong những dãy phố nhà lầu mặt tiền của các gia
đình người bắc di cư vào Nam
sau năm 54, nhưng nay làm ăn đã phát đạt ra. Hàng xóm láng giềng thường gọi
nhóm người miền Nam đó bằng tên mộc mạc thân thương như Bảy lé bi da, Ba Triết
chuyên đào lỗ chôn người, và bà Hương trầu làm bia đá mài...v.v, vì không biết
tên thật của họ là gì? Ngoài ra còn có ông Tam bán cháo lòng có 2 người con
trai tên là Tứ và Ngũ, mà cho đến nay đã bao năm qua, tôi vẫn còn ghi ấn tượng
vì tên tuổi của họ hơi pha nút số đen đỏ của hột xí ngầu…
Gia đình ông Tam sống trong con hẻm nhỏ,
đàng sau căn gác của gia đình tôi cư ngụ chừng 15 thước. Con hẻm này rất hẹp,
khoảng độ 1.5 mét (hơn 5 feet) là cùng. May ra chỉ vừa đủ cho một chiếc xe ba
gác đi lọt mà thôi. Đôi khi phu ba gác kéo xe dzô rồi đạp xe ra còn va chạm
đụng tới đụng lui vào bức tường thành, một bên chắn ngang nghĩa địa và bên kia
là nhà của ông bà nội tôi cho ở.
Con hẻm này cũng là nơi tiểu tiện bừa bãi
của mấy bà bán hàng rong, hay ai đó tình cờ đi chợ ông Tạ ngang qua mắc đái
quá, xả đại bầu tâm sự cho nó xong việc. Ban ngày ban mặt mà mấy bà cứ tụt quần
xuống túa xua, giải quyết vấn đề một cách tự nhiên như người Hà Nội vậy. Nếu có
đám con nít nào nhìn trộm thì có bà nổi giận, liền đứng dậy kéo quần lên nạt nộ
chúng một trận. Đôi khi đụng phải chị em ta sồn sồn tiểu bậy bị bắt gặp quê độ,
bèn lấy ngón tay chỉ vào phía bên dưới bụng như biểu dương khí thế “khiêu
khích” đám nhỏ. Xong xuôi nóng máu văng tục, chửi xéo chửi xiên bằng những từ
ngữ lỗ mãng như: đéo mẹ hay tiên sư cha chúng mày cũng từ chỗ nầy chui ra, có
gì đâu mà dòm với ngó…
Đầu năm 1970, khi gia đình tôi dọn về
Sàigòn thì gia đình ông Tam đã ở trong xóm này lâu lắm rồi. Chẳng biết gia đình
ông làm nghề gì để sống và không ai soi mói ai để làm gì. Tuy sinh ra và lớn
lên ở miền Nam ,
nhưng gia đình ông lại rất nghèo. Tài sản có lẽ chỉ có một căn nhà mái tôn mục
nát, chung quanh đóng ván cũ kỹ thiếu điều muốn sập. Nghe đồn trước thời ông
Diệm, gia đình ông Tam là chủ mảnh đất lớn trong con hẻm cụt này. Nhưng vì bản
tính người miền Nam
vốn lè phè, ăn ngày nào kiếm đủ ngày đó nên dần dần bán hết ráo các mảnh đất
chung quanh nhà cho người khác mở xưởng guốc, nuôi heo và lập võ đường Vô Vi
Nam Việt Võ Đạo.
Ông Tam góa vợ, ở vậy sống với con cái. Ông
có người con gái lớn tên là Hương đã lập gia đình ở riêng, lâu lâu mới ghé nhà
thăm gia đình. Kế Hương là Tứ, Ngũ, và gái út tên là Hoa độ chừng 9 hay 10 tuổi
gì đó? Hoa mất mẹ năm lên 7 hay lên 8, nên ít khi tươi cười. Đến nay, đôi khi
tôi tự hỏi tại sao con gái lại đặt tên là Hương và Hoa mà không phải là Nhất và
Nhị như hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị vậy?
Gia đình tôi sống trên căn gác đối diện con
hẻm cụt, nên thấy rõ mọi người trong xóm nhỏ qua lại hàng ngày. Tứ, Ngũ và Hoa
còn cắp sách đi học. Lúc đi học thấy họ ăn mặc áo trắng đồng phục cũng tươm tất
lắm, nhưng không biết học ở đâu? Ban chiều, hai anh em phụ cha đẩy xe đi bán
cháo lòng ở đầu đường cho tới xẩm tối mới về. Vào năm 1971, thấy Tứ đã cặp bồ.
Cô bồ rất xinh gái, mảnh mai hay ghé nhà Tứ chơi thường xuyên và mặc áo dài
trắng nên đoán cô ta thuộc con nhà gia giáo, học ở trường trung học tư thục
công giáo thì phải?
Năm đó, có lẽ Tứ đang học lớp Đệ Nhị (lớp
11 ngày nay). Anh ta có bồ hay mê chơi nên thi rớt Tú Tài I. Nhẩm tuổi, thì Tứ
cỡ chừng 17 tuổi và sinh vào năm 1954? Nghe nói
là khi bị thi rớt Tú Tài I, thì không được lên lớp Đệ Nhất (lớp 12 ngày nay)
học tiếp. Không hiểu tại sao nữa, nhưng có lẽ nước ta đang trong thời kỳ chiến
tranh nên chính phủ cần loại thí sinh diện nam giới để đôn quân bắt lính? Từ
dạo đó không còn thấy Tứ đi học nữa. Mỗi trưa cùng cha đẩy xe đi bán cháo lòng
như thường lệ. Lâu lâu, Tứ dù đi chơi với cô bạn gái nên chỉ thấy ông Tam và
Ngũ đi bán mà thôi.
Đầu xuân năm 1972, Tứ tình nguyện đăng lính
Nhẩy Dù rồi được gởi đi thụ huấn ở quân trường Quang Trung 9 tuần lễ. Sau đó
thì học khóa huấn luyện Nhẩy Dù 3 tuần lễ ở trại Hoàng hoa Thám, tọa lạc trên
ngã tư Bảy Hiền hướng đi bà Quẹo, không xa xóm chúng tôi là bao. Anh hãnh diện
đeo huy hiệu cánh dù thêu bằng vải đen, khâu trên nắp áo bên phải sau khi mãn
khóa Nhẩy Dù căn bản. Ngẫu nhiên dịp về phép, lại trùng vào thời điểm chiến sự
ở miền Nam
sôi động mạnh theo cơn bão Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Tứ về chơi độ 1 tuần lễ, trong bộ quân phục
hoa rừng mới toanh ủi thẳng nếp, đầu đội nón beret đỏ trông oai lắm. Anh lái xe
Honđa hay đi bộ với cô bồ lúc nào cũng mặc bộ quân phục hoa dù này. Cô bồ khoác
tay anh nũng nịu ra vẻ tự hào về người yêu đẹp trai là tân binh nhẩy dù, sẵn
sàng chuẩn bị ngày giờ lên điểm “đi mây về gió”. Mấy thằng con nít mặc quần
thủng đít, như chúng tôi trầm trồ thấy anh le lói mà tưởng tượng cũng sẽ trở
thành người lính như anh dzậy. Bố tôi chứng kiến Tứ đi qua lại trong xóm và đọc
được ý nghĩ của con trai mình. Lúc nào cũng đam mê đời lính chiến nhà binh tuy
còn quá trẻ. Ông vỗ vai khuyên nhủ:
- Ráng học đi con, kẻo lỡ một mai phải đi
lính thì đi sĩ quan cho đỡ cực…
Trước ngày ra tiền tuyến, có người hỏi anh
đã được chỉ định về tiểu đoàn nào của Sư Đoàn Nhẩy Dù chưa, thì Tứ nói là Tiểu
Đoàn 1. Nhưng đến nay khi viết bài này và kiểm chứng dữ kiện, tôi cũng không
biết hàng xóm nghe ra là Tiểu Đoàn 1 Nhẩy Dù dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lê
Hồng hay Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù của Thiếu Tá Lê Văn Mễ nữa?(*) Rồi Tứ lên đường
không vận ra Huế vào tuần thứ 3, ngày 19 tháng 6 năm 1972. Tiểu Đoàn 1 Nhẩy Dù
dự cuộc hành quân Lam Sơn 72 vượt sông Mỹ Chánh, đi tái chiếm Quảng Trị đã lọt
vào tay cộng sản Bắc Việt khi miền Nam bị xâm lăng vào đầu tháng 4 năm đó.
Khoảng trung tuần tháng 7 năm 1972, đang
đứng trên lan cang căn gác nhỏ nhìn qua nghĩa trang Thánh Minh Tương Tế, thả
hồn phiêu bạt theo tin tức chiến sự dồn dập. Bỗng thấy một chiếc xe GMC nhà
binh de đít vào đầu con hẻm nhỏ, mấy người lính nhẩy dù mang cỗ quan tài xuống và
để trên 2 chân chống đứng dưới đất, rồi phủ lá cờ vàng Ba Sọc Đỏ lên trên cỗ
quan tài. Bốn người lính khênh cỗ quan tài đi dọc theo con hẻm nhỏ vào bên
trong xóm. Con nít ở đâu đâu bu quanh cỗ quan tài, tò mò quan sát xem hòm của
ai vậy? Gia đình ông Tam chạy ra đầu ngõ khóc lóc ỷ ôi. Có người thân lấy tay
đập nhẹ vào cỗ quan tài kêu gào thảm thiết, sao Tứ lại ra đi sớm dzậy hả cưng…
Cô bạn gái của Tứ có mặt tại hiện trường
níu kéo cỗ quan tài lại, không để cho lính làm nhiệm vụ của họ. Nhưng cuối cùng
mấy người lính cũng mang được cỗ quan tài của Tứ vào bên trong nhà của ông Tam,
làm nhà tạm để linh cữu. Lúc quan tài đi ngang qua căn gác nhà tôi, mùi tử khí
bốc ra đã nặng mùi lắm rồi. Mọi người trong xóm bàng hoàng, vì không ngờ mới có
hơn 3 tuần lễ mà Tứ đã ra đi một cách đột ngột. Ôi, đau đớn thay! Trận đầu cũng
là trận cuối của đời người tân binh nhẩy dù.
Ngày đi, vinh hạnh khoác chiến y
Ngày về, vinh quang phủ cờ vàng
Vài ngày sau, chiếc xe GMC nhà binh lại đến
để đưa linh cửu người tân binh nhẩy dù xấu số, đi mai táng ở nghĩa trang Quân
Đội Biên Hòa. Gia đình ông Tam có mời thầy thượng tọa về nhà cúng kiến, làm lễ
an táng cho người con trai theo nghi thức Phật Giáo. Cầm hình đi trước quan tài
là Ngũ. Còn ông Tam, hai cô con gái và cô bạn gái của Tứ thì đi đàng sau. Đám
phụ nữ con gái khóc lóc như mưa rào. Nhất là cô bạn gái bị sốc nặng, khóc đến
sưng cả mắt. Bố tôi đại diện cho gia đình, đi phúng điếu để bày tỏ lòng chia
buồn. Khi cỗ quan tài đi trong con hẻm nhỏ lần cuối, đôi lần bắt gặp ánh mắt
của bố tôi nhìn tôi trân trân như thầm nói rằng, con thấy kết quả chưa. Trong
thâm tâm không người cha nào muốn con mình đi lính cả, sợ bị chết yểu…
Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27
tháng 1 năm 1973, trên danh nghĩa chấm dứt chiến tranh Việt Nam để người Mỹ rút
quân về nước trong danh dự. Nghe tin hai miền Nam-Bắc bàn giao trao trả tù binh
với nhau, làm ông Tam rộn ràng hẳn ra, ông đi hết nhà này tới nhà kia trong xóm
loan truyền rằng, Tứ chưa chết và có tên trong danh sách trao trả tù binh. Đến
khi hết các đợt trao trả tù binh vào 2 tháng sau, cũng không thấy hình dáng tăm
hơi của Tứ đâu cả. Nhưng mặc cho ai nói gì thì nói, riêng ông Tam vẫn tin rằng
con trai của ông vẫn còn sống và đang bị cộng sản Bắc Việt cầm giữ lại bên kia
bờ vĩ tuyến…
Thời gian trôi và Ngũ cũng lớn trưởng
thành, thanh niên. Tên này bỏ học đi quậy phá xóm tưng bừng. Hắn cấu kết với
một tên phì lũ to con lớn xác thuộc diện Việt kiều sinh sống bên Miên, bị lính
Khmer của chính quyền Lon Nol cáp duồng bên xứ chùa tháp vào năm 1970. Gia đình
tên này hồi hương về Việt Nam
và sinh sống trong con hẻm cụt, sát bên nhà ông Tam. Hai tên này kết bè kết
đảng trộm cắp, ma cô, buôn bán cần sa và hành hung đám nhỏ tụi tui tơi bời. Hở
một cái là chúng bạt tai đám trẻ như ra vẻ tay anh chị vậy. Không biết ông Tam
có biết chuyện Ngũ làm bậy không, nhưng chẳng thằng nào dám hó hé đi mét ông,
sợ bị tên Ngũ trả thù? Đám trẻ nhỏ so sánh giữa anh Tứ và Ngũ như hai thái cực.
Sao trời lỡ cất (mang) đi anh Tứ. Còn thằng em ác ôn côn đồ trời đánh thánh đâm
của anh, như tên Ngũ kia lại sống mãi hở trời…
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ông Tam cứ
đinh ninh rằng xác người trong cỗ quan tài chôn ở nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa
vào tháng 7 năm 1972 thuộc về người khác, không phải là Tứ. Ông cho rằng Tứ vẫn
chưa chết và một ngày nào đó sẽ xuất hiện trở về lại trong con hẻm cụt ven đô
Sàigòn. Riêng Ngũ và tên phì lũ to con đó, vẫn chứng nào tật nấy. Ăn trộm, hút
sách, ma cô và làm những chuyện phi pháp càng lúc càng lộng hành. Vào một đêm
đầu năm 1976, đám công an phường đến bắt hai tên này đi biệt tích, “mút mùa lệ
thủy”. Ông Tam và cô Hoa nói là Ngũ bị bắt đi cải tạo, để trở thành người công
dân tốt.
Nhưng vài năm sau vẫn không thấy Ngũ trở
về? Mất hai thằng con, ông Tam như người mất hồn. Ông không còn khỏe mạnh và đủ
sức để nấu cháo, đẩy xe đi bán được nữa. Không biết gia đình ông sống ra sao?
Hàng xóm chung quanh thấy mấy người mua sỉ cho xe ghé nhà ông Tam, chở đi một
số tủ thờ đóng bằng gỗ quý để có tiền sinh sống. Ông nhớ thương Tứ mãi nên bị
mát giây, lâu lâu lên cơn chửi đổng vu vơ mấy người hàng xóm. Nhiều người hiểu
hoàn cảnh nên không chấp nhứt. Riêng tôi lớn lên sau ngày miền Nam
mất, tin rằng Tứ đã chết. Anh ta đã đền xong nợ nước…
Tháng 5 năm 1996, tôi trở về Việt Nam
một lần duy nhất vì công chuyện. Nếu không tá túc ở căn nhà cũ của ông bà nội
tôi để lại, chắc không bao giờ tôi nhận ra con hẻm nhỏ năm xưa được nữa. Căn
gác của gia đình tôi giờ đã cũ mục đến nỗi người em gái ở lại nhắc nhở rằng,
không an toàn để anh bước lên đó đâu. Con hẻm nhỏ năm xưa, bây giờ nối dài từ
đầu đường Phạm Văn Hai ra tới tận Lăng Cha Cả lận. Con hẻm này, cũng cùng tên
đường Phạm Văn Hai mở rộng lớn, xe cộ có thể lưu thông qua lại hai chiều dễ
dàng. Nhiều nhà lầu được xây cất dọc theo hai bên đường. Nghĩa trang Thánh Minh
Tương Tế rộng lớn thời xa xưa, nay đã trở thành chợ Phạm Văn Hai sầm uất. Nhà
của ông Tam có lẽ nằm trong dự án nới rộng mặt đường? Người thân cho biết, ông
Tam đã mất sau ngày tôi đi vượt biên được vài năm.
Không ai còn nhắc về Ngũ và Hoa nữa. Nhìn
đường lộ lớn hôm nay, chính là con hẻm cụt năm xưa mà liên tưởng đến Tứ, tất cả
như là kỷ niệm chóng qua theo dòng thời gian. Nhưng ít ra trong con hẻm cụt
này, có một người trai hiên ngang đã vinh hạnh khoác áo chiến y hoa rừng của Sư
Đoàn Nhẩy Dù Việt Nam Cộng Hòa một thời vang bóng…
Chú thích (*):
1) Trung Tá Lê Hồng là Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn
1 Nhẩy Dù Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cho đến ngày 30/4/75, rồi cùng tất cả quân
nhân di tản qua Guam . Năm 1981, ông từ Hoa Kỳ
trở về Thái Lan, tham gia Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh. Nguồn tin xác nhận nói
rằng ông chết bí mật ở khu chiến Thái Lan vào tháng 4 hay tháng 5 năm 1985,
dưới bí danh Đặng Quốc Hiền, trước khi 3 cuộc hành quân Đông Tiến tiến hành về
Việt Nam .
2) Trung Tá Lê Văn Mễ cũng rời quê hương
vào cuối tháng 4 năm 1975. Hiện đang định cư ở San Jose , California .
Bản
Anh ngữ: Khoác Áo Chiến Y
A Paratrooper’s Garrison
Uniform
Darren Thang
The blue collar workers
lived nearby the cinema Dai Loi on Thoai
Ngoc Hau Street (Pham Van Hai now), across from
the Catholic cemetery (Pham Van Hai Market at present) before 1975. Most of
them were born and raised in South
Vietnam . Their houses were located
among the successful business owners that moved from North Vietnam to escape the
Vietnamese Communist in 1954. People often called the South Vietnamese
neighbors by their nicknames such as Mr. Seven Cross Eyed. Mr. Triet
specialized on burying dead people. Mrs. Huong liked to chew betel daily. She
ran a marble tomb business in the back of the cemetery. In fact, no one really
knew what their real names were. Besides, the neighborhood also had Mr.
Tam (Third) who cooked porridge for a living. He had two sons and their names
were Tu (Fourth) and Ngu (Fifth). Their first names were picked from dice
numbers that sounded very funny and interesting. It was like gambling to me, whenever
I thought about them.
Mr. Tam’s house was
built behind an alley that was away from my row house about 15 m (50 feet).
This alley was 1.5 m wide (approx. 5 ft). It may be just wide enough for a
carrier tricycle to go through. Sometimes, a worker pulled his carrier
tricycle with a full load of merchandise into the alley and pedaled a cart out
when it was empty. The racks often smashed into the walls on both sides
of the lane. This alley was also a place for strangers to use as bathroom
when needed. Ironically, most of the strangers were women. They went to
pee during the daylight without feeling any shame at all. Their action was very
simple, just like the way of Hanoi
’s citizens. Unfortunately, some kids in the neighborhood were curious to
see their butts when they were peeing because kids had nothing else to
do. Some women felt upset about that. They acted nasty by pointing
fingers at their belly buttons and started cursing at the kids. Damm you! You
guys also came out of here. What is your problem?
Mr. Tam lived behind
this alley for a long time before my family moved into Saigon
in early 1970’s. No one knew what he did for a living and they didn’t
care either. Despite of being born and raised in South Vietnam ,
Tam’s family was considered poor. His property consisted of a broken
house with rotten siding. A gossip about Tam was that he used to own a
large lot in the back of this alley. Gradually, he sold most of his land to
other businesses because he liked to take it easy in life. Tam was a
widower and chose to stay single to raise his three young children. He
also had an older daughter named Huong who was already married and lived with
her own family. Huong often came home to visit her elderly father and
siblings. After her was Tu (Fourth), Ngu (Fifth) and Hoa (flower).
Hoa was about 9 or 10 years old at that time and had already lost her mom when
she turned 7 or 8 years old. Sometimes, I wonder why Tam did not name his
daughters like First and Second from dice numbers. Then, their names would be
similar like Trung’s sisters.
My family’s house was
located along this alley; therefore, we had seen everyone walking by everyday.
We noticed that Tu, Ngu and Hoa were students. When they went to school,
they were wearing neat uniforms. However, no one could tell which school
they attended. After school, two brothers helped their father sell rice
soup on a busy street until night time. In 1971, people saw Tu had a
girlfriend. His girlfriend looked very cute and often stopped by Tu’s
house to visit him. She was seen wearing white Vietnamese ao dai to
school. Tu probably attended 11th grade at well. He, however, failed his final
exam that would be considered a passing grade for attending 12th grade.
By South Vietnam
government’s law, any male student who fails to achieve his diploma I for the
11th grade would be drafted for the army. Tu probably already
turned 17 years old because he may have been born in 1954. At 18 years of
age young men would be required to join the army due to the war event. In
the fall of 1971, Tu no longer went to school. He helped his father to sell
porridge daily instead. Sometimes, Tu didn’t go to work because he spent time
with his girlfriend.
In the spring of 1972,
Tu decided to enlist in Airborne Division of the Army of the Republic of
Vietnam (ARVN). He was undergoing basic military training at the Quang Trung
Training Center for 9 weeks. Then he
attended basic airborne course at Hoang Hoa Tham Camp for 3 more weeks.
The camp was located near the intersection of Bay Hien, but was not too far
away from our neighbor. Tu was seen wearing a Parachutist Badge on
his uniform and a red beret when he came home to visit for about 1 week after
graduation. It was coincident during the event of Easter offensive in
1972. Every time Tu went out with his girlfriend, he always dressed in
his Paratrooper’s garrison uniform. His girlfriend felt very proud of him
too. Kids in the neighborhood who knew him well would dream to become soldiers
to serve the country just like him. My dad read the idea and said to me:
- Do well in school,
son. It would give you a chance to enter the national military academy of Vietnam and become an officer in the
future…
Before his departure to
the battlefield, someone asked him to what battalion he would be assigned. He
said the 1stBattalion of Airborne Division. Since I was still young
at that time, I couldn’t remember if it would be either the 1st or
11th Airborne Battalion. Major Hong Le was a commander of
the 1st Airborne Battalion and Major Me Van Le was a commander
of the 11th Airborne Battalion during the Easter Offensive of
1972(*). Briefly, Tu left home on June 19, 1972 for being with the 1st Airborne
Battalion which was deploying to fight Viet Cong’s invasion, near the Vietnamese Demilitarized Zone (DMZ) or 17th parallel.
In the middle of July
of 1972, I saw an army’s GMC truck was trying to back up into our neighborhood’s
alley. Some Paratroopers then loaded a coffin down from the truck and put
it on to two stands which were laid above the ground. Soldiers covered
the coffin with a flag of the Republic of Vietnam . Kids elsewhere gathered
in the area with curiosity and intended to find out who the casket belonged to.
Tam’s family ran to the coffin site and started crying loudly. One
of Tam’s relative tried to tap the coffin and said: “Why does it have to be
you, Tu?” Tu’s girlfriend tried to hold the coffin back. She didn’t let the
soldiers carry the coffin into Tam’s house, the place where people normally
used as a temporary funeral home in Vietnam . When the coffin passed by
my house, I smelled a very strong odor of a dead body. The body may have been
dead for more than a week already. The neighborhood was in shock due to Tu’s
sudden death. “He left home just about 3 weeks ago”, someone said. Oh, my
goodness! It was his first fight and also his last. That was so sad!
When you depart, be proud to wear a soldier’s uniform
When you return, you are honored with aSouth Vietnam ’s flag
When you return, you are honored with a
The army’s GMC truck
returned a few days later to deliver Tu’s casket for burying at the National
Military Cemetery of Bien Hoa. Tam’s family members gathered to memorialize
Tu’s death and the funeral services were performed in the Buddhist’s ritual.
Ngu, carrying Tu’s picture, walked in the front. Tam, Tu’s two sisters and his
girlfriend were following behind the coffin. Women cried so hard, especially
Tu’s girlfriend who was the most in shock. My father also came for viewing and
attending the funeral. He often stared at me like telling the truth about Tu’s
death. It was a result of an ugly war. No one really wanted it to happen.
The Paris Peace Accords
was signed on January 27, 1973, just intended for the
US ending direct military involvement and pulling the troops out of Vietnam
. Based on the provisions of agreement said, prisoners of war between the North
and South Vietnam would be released and allowed to return home. The news made Tam feel
excited. He told everyone in neighborhood about Tu still being alive. Tu may
have been captured by Viet Cong near DMZ during the Easter Offensive of 1972
and he was probably on the list of prisoner exchanges. After the prisoner
exchange treaty was completed within sixty days, there was no sight of
Tu. However, no matter what people said, Tam had always believed that his
son was still alive and was being held by Vietnamese communist in the North…
Time flies and Ngu was growing up as a young man. He dropped out of
high school at the age of 15 and became part of a flash mob on the block.
He hooked up with a big boy who was also living behind the alley which was next
to his house. This young man and his family just moved from Cambodia , escaping the massacre of
Khmers’ soldiers who were governed under the regime of Lon Nol in 1970. Ngu and
his buddy got involved in several terrible things like thieves, pimps and drug
dealers. They often kicked butts and punched kids in the block to prove they
were tough guys. None of the kids wanted to say anything to Tam because they
were afraid of Ngu. Sometimes, kids gathered together and compared both
brothers’ lives to be opposite of each other. Tu was a good man and died young,
while Ngu was a bad man and still alive…
After the fall of Saigon on April 30th,
1975, Tam insisted that the soldier, who was
buried at the National Military Cemetery of Bien Hoa, was not Tu. He said that Tu
would return home one day. In the mean time, Ngu and his buddy were still
living as outlaws under the new communist’s regime. Both of them were out
of control. One night, in the early of 1976, Viet Cong’s police arrived
at their houses and arrested them. They were locked up for a long time and no
one knew where they were. Losing two of his sons, Tam became crazy.
He was not able to cook porridge to sell any more. Some neighbors wondered what
Tam did for a living. People noticed that Tam sold some of his antique
furniture to support his family. Since he missed and loved Tu greatly, Tam
often walked around the neighborhood and cursed everyone he saw. However,
people ignored him. After growing up, I often thought about Tu and
believed that he had passed away. Tu sacrificed his life for his
country…
In May of 1996, I
returned to Vietnam
for the first and only time. I stayed at my sister’s family, who was still
living in a same house which I used to live in. That house, nowadays, was very
old and its balcony was not safe to stand on. A dead end alley before now has
become a busy two way street and also named Pham Van Hai. The Catholic
cemetery before was turned into the Pham Van Hai Market. Tam’s house may
have been built for a wider street. He died a few years later after I left the
country. No one mentioned about Ngu and Hoa any more. Observing Pham Van Hai Street
that day, I suddenly thought about Tu very much. It all become past just like a
dream yesterday. Lastly, in my memory about this old alley, we had a courageous
young man who was proud to wear a Paratrooper’s garrison uniform to serve our
country knowing the risks involved…
Notes(*):
1) Lieutenant Colonel Hong Le became a Vice Commander of 1st Brigade
of Airborne Division (ARVN) at the end of April 30, 1975. He and his troops
left for Guam after the fall of Saigon .
In 1981, Hong left the United
States to join the National United Front for
the Freedom of Vietnam (NUFLV), under the leader Minh Co Hoang (former
Vice-Admiral of ARVN). Hong Le’s death was unknown, but may have occurred in
either April or May 1985 at Thai-Lao border (resistance region), under a secret
named Hien Quoc Dang. He had never attempted to enter Vietnam in any
3 campaigns of Dong Tien (the East Operation).
2) Me Van Le became Lieutenant Colonel and left Vietnam on the last day of April,
1975. He now resides in San Jose
, California .
Tâm Sự Đôi Hàng về
Phạm Hoàng Tùng
Phạm Hoàng Tùng
Darren
Thăng
Tôi gởi vội 2 sáng tác ưa thích nhất của mình đến anh, để đăng trong số nhiều tác phẩm viết về lính chiến VNCH, sau 1 năm im hơi lặng tiếng không liên lạc với nhau. Nay anh vừa e-mail hỏi thăm và cho tôi biết blog: “phamhoangtung.blogspot.com” mới được thành
lập. Ngạc nhiên thấy anh đặt tên trang chiến hữu: “Thương Về Người Chiến Sĩ Cộng Hòa”, thay vì: “Trang Của Bạn Đọc”, như đã nói qua. Tôi rất hài lòng với mục lục nầy.
Tôi quen biết anh Phạm Hoàng Tùng vào tháng 5 năm 2007, nhân dịp tình cờ đọc một số trang chính của hồi ký: “Hành Trình Người Đi Cứu Nước” do anh dầy công biên soạn ròng rã 6 năm trời, được Sàigòn Nhỏ ở Hoa Kỳ đăng tải vào
khoảng tháng 10,
2006 - 3, 2007.
Những gì
liên quan đến kháng chiến tại quốc nội, tôi hằng theo dõi diễn tiến trên các
mặt báo chí từ lâu và luôn lo lắng cho số phận người đi xây đắp mộng cơ đồ Việt Nam . Nay có dịp hàn
huyên với một cựu kháng chiến quân, tôi đánh bạo e-mail cho anh PHT theo địa chỉ đăng trên bài báo, với tâm tình chia xẻ của một độc giả ngưỡng mộ các chàng trai hiên ngang hy sinh vì đất nước dân tộc.
Hồi ký dầy hơn 900 trang, tôi mua ở nhà sách Tự Lực tọa lạc trên đường Brookhurst thuộc thành phố Garden Grove, Nam California nhân chuyến hè đi chơi năm đó. Câu chuyện tự thuật hành trình dấn thân của một Kháng Chiến Quân Việt Nam từ trại tị nạn Sikhiew, Thái Lan vào khu chiến Hoàng Cơ Minh ở biên thùy
Thái-Lào vào ngày 14 tháng 2, năm 1984.
Đáng lẽ ra anh nên đợi thêm một thời gian, để được đi tị nạn ở Hoa Kỳ thì còn chuyện gì nữa mà nói. Nhưng tất cả vì lý tưởng cao đẹp, quyết tâm đi quang phục Việt Nam khỏi ách cộng sản sau khi miền Nam bị cưỡng chiếm vào tháng 4,
1975.
Tôi mến mộ anh đã hy sinh 12 năm (1982 - 1993) tuổi thanh xuân, dấn thân trong hệ lụy. Anh đã đánh mất tương lai của mình, nhưng ít ra còn nhân tính của con người, nhận định được cái đúng cái sai của tổ chức anh từng phục vụ.
Nhớ lại hào khí đấu tranh rầm rộ của đoàn thể áo nâu
ra quân vào các buổi Chủ Nhật ở Miles Square Park tại thành phố
Fountain Valley, quận Cam,
miền Nam Cali vào đầu thập niên 1980. Diễn giả là cựu đại tá cảnh sát quốc gia Trần Minh Công phát biểu một cách hùng hồn, mạch lạc làm rót lòng người nghe.
Ai ai theo dõi cuộc giương cờ hô hào ủng hộ, cũng nao nức như muốn bắt tay ngay vào công cuộc đấu tranh lật đổ chế độ cộng sản Việt Nam hà
khắc. Tổ chức làm say đảo bao người ngây thơ và suýt nữa thì tôi cũng
lầm đường lạc lối như anh…
Một điều làm tôi cảm động qua câu nói bất hủ của anh: “Nợ nước Trong tình nhà!”, khi thân phụ của anh qua đời ở Việt Nam mà
anh không thể về được để chịu tang.
Người thứ 2 làm tôi cảm kích, chính là người bạn đời của anh. Chị đã thương yêu và cùng anh xây dựng hạnh phúc, sau khi anh vượt thoát khỏi trại tù cộng sản vào tháng 3, 1993. Ngày tháng đó, có lẽ không bao giờ xóa nhòa trong tâm tưởng? Anh lại lặn lội tìm đường đến Cam Bốt, dự tính đi tới trại tị nạn biên giới Thái Lan năm xưa.
Nhưng than ôi, trại đã thôi nhận người tị nạn kể từ năm 1989 rồi. Đứng bên lề đường quê người vào một buổi chiều hoàng hôn ngã bóng, tim anh se thắt lại, buồn tủi và thương thay cho thân phận mình không còn lối thoát.
Tâm tư miên man liên tưởng đến kỷ niệm xa xăm về một thập niên trước. Đúng rồi! Chính nơi đây ta từng lăn lộn kiếm sống, dò tìm cơ hội vượt biên ra nước ngoài. Rồi sau đó, đi theo kháng chiến và theo lệnh trên xuôi về cố hương.
Trong bước đường tuyệt vọng độc hành tha phương đó, may sao anh gặp lại bóng hồng xưa trong một khung cảnh ngỡ ngàng. Ít ra trời vẫn còn thương kẻ hiền lương. Cuộc đời anh rẽ bước sang trang từ đây, bỏ lại sau lưng quá khứ một thời đen tối.
Tạ ơn trời, đội ơn người đã cho anh sức sống, nghị lực và niềm tin mới. Người bạn đời quán xuyến gia đình, giúp anh hoàn thành tâm nguyện trở thành một văn sĩ nhân bản và trực tính.
Nhìn tấm gương đó, mà tôi học hỏi và đi vào sáng tác văn chương.
Tôi mong muốn hỗ trợ tiếp sức cho anh, những gì mình có thể làm được. Ít ra cùng
anh viết lên những tác phẩm ca ngợi, vinh danh người lính Cộng Hòa nói
chung và các Kháng Chiến Quân
Việt Nam hào hùng,
hy sinh nói riêng sau 1975.
Darren Thăng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét