Bài 3
Cội Nguồn Của Vụ Án
Cải Cách Ruộng Đất Đẫm Máu
Ở Miền Bắc Việt Nam
Vào Thập Niên 1950
Thành Phần KULAK
Kulak (chữ Nga: кула́к, có nghĩa keo kiệt, biển lận), đây là từ
ngữ có nghĩa xấu được dùng rộng rãi trong ngôn ngữ chính trị Sô
Viết để chỉ
thành phần nông dân giàu
có bị nhà nước gán cho cái tên “kẻ thù giai cấp” của nông dân nghèo.
Từ ngữ này đầu tiên để
nói tới những nông dân độc lập ở Nga, người làm chủ các nông trại
lớn, thường thuê mướn lao động, do kết quả của Cải Cách Stolypin được
giới thiệu từ năm 1906 trong việc tạo ra thành phần chủ đất mới, độc
lập và ủng hộ chế độ Nga Hoàng.
Năm 1912, 16% (11% trong năm
1903) trong
tổng số nông dân Nga có trên 8 mẫu Anh (chừng 32.000 m²), đây cũng là bắt đầu sự phân biệt giai cấp trung lưu và nông dân
giàu có theo thống kê. Vào thời điểm đó, trung bình mỗi gia đình nông
dân có 6 tới 10 đứa con (gia đình nào có nhiều nam giới thì diện
tích được cấp tăng theo).
Sự tiêu diệt thành phần Kulak và phá hủy các nông trại độc lập của họ, sau
cùng gây hậu quả cho kinh tế và toàn bộ nền nông nghiệp Sô Viết,
như theo lời kể lại của Mikhail Gorbachev, Chủ
Tịch Đảng và rồi là Tổng Thống Liên Sô. Gia đình ông Gorbachev thuộc thành phần Kulak phải chịu đựng cảnh đàn áp chính trị dưới thời độc tài
chuyên chế Stalin trong thập niên 1930.
1/ Định Nghĩa
Theo thuật ngữ trong chế độ Sô Viết, nông dân bị chia ra làm ba hạng, Bednyak (nông dân
nghèo hay bần nông), Seredniak
(trung nông, có lợi tức trung bình), và Kulak (phú nông hay địa chủ tùy theo số
ruộng đất sở hữu ít nhiều). Ngoài ra còn có thành phần Batrak,
theo từ ngữ của Cộng Sản
Việt Nam gọi là bần cố nông, tức loại nông dân quá nghèo, không có
đất canh tác chỉ đi làm thuê cho địa chủ.
Sau “Cách
Mạng Tháng Mười”, Cộng Sản xem xét chỉ có bần nông và bần cố nông là “đồng minh” thực
sự của Sô Viết và giai cấp chuyên chính “vô sản”. Còn thành phần trung nông không đáng tin cậy,
thuộc loại đồng minh lừng chừng không dứt khoát. Còn thành phần Kulak
bị xếp vào loại kẻ thù giai cấp bởi vì họ làm chủ nhiều đất và
độc lập về kinh tế.
Tuy nhiên trên thực tế, nông
dân bị cho là Kulak lại đặc biệt không giàu có, trung bình giá trị hàng hóa của Kulak
bị tịch thu trong suốt thời kỳ thực hiện chính sách tiêu diệt Kulak
đầu thập niên 1930 chỉ có khoảng từ 90 tới 210 Mỹ kim ở mỗi gia
đình.
Cả nông dân và viên chức Sô
Viết thường không chắc chắn đối với những gì cấu thành Kulak
và từ ngữ này thường được dùng gán cho bất cứ ai có tài sản nhiều
hơn “bình thường” theo tiêu chuẩn chủ quan của đảng. Mà đảng thì chẳng khôn hơn
ai.
Đầu tiên những ai
thuộc thành phần Kulak không bị trừng phạt, họ chỉ bị chính quyền thiếu tin cậy. Tuy nhiên vào thời kỳ cao điểm của việc thực
hiện chính sách Tập Thể Hóa Nông Nghiệp, người bị xếp vào thành
phần Kulak là đối tượng bị trừng phạt không xét xử và thường bị
giết bỏ.
Chiến
Dịch Tập Thể Hóa nông nghiệp
ở Liên
Sô trong thập niên 1930,
khẩu
hiệu trong
hình:
“Chúng
tôi, những nông dân ở
nông trại tập thể trên
căn bản
Tập
Thể Hóa hoàn toàn,
sẽ
loại trừ giai cấp
Kulak .”.
Ảnh nguồn:
Tháng 5/1929, chính quyền Sô Viết do
Satlin nắm đầu đã đề ra sắc luật chính thức hóa ý nghĩa về
các “gia đình nông dân Kulak”, theo đó, bất cứ nông dân nào có đặc điểm sau đây đều bị coi
là thuộc thành phần Kulak:
a/ Sử dụng
lao động thuê mướn.
b/ Làm chủ
nhà máy xay, nhà máy chế biến bơ hay các trang bị phức tạp hoạt
động bằng máy móc.
c/ Cho thuê
mướn có hệ thống các phương tiện hay trang bị nông nghiệp.
d/ Liên hệ
tới việc mua bán, cho mượn tiền, có tiền lời từ việc mua bán hay
các hình thức chiếm hữu khác không thông qua lao động.
Với mục (d), bất cứ nông
dân nào bán sản phẩm nông nghiệp dư thừa ra thị trường có thể bị
xếp loại là Kulak. Vào năm 1930, danh sách này được mở rộng bao gồm người cho
thuê mướn nhà máy kỹ nghệ (công nghiệp) như nhà máy cưa và người
cho mướn đất.
Gregory
Zinoviev, một kẻ cầm đầu khét tiếng
của Sô Viết từng phát biểu trong năm 1924:”Chúng ta muốn diễn tả bất cứ nông
dân nào có đủ ăn đều bị coi là Kulak.” Vào thời gian đó, các Sô
Viết địa phương được giao quyền thêm vào tiêu chuẩn trong việc xếp
loại gia đình nông dân nào sẽ bị coi là giai cấp Kulak
tùy thuộc vào tình hình địa phương.
CUỘC KHỦNG HOẢNG NĂM 1928
Nhu cầu đòi hỏi thêm lương
thực dẫn tới việc nhà nước phải cho thi hành lại chính sách trưng
thu đã bị phản đối ở nông thôn. Năm 1928, việc thu mua bị giảm xuống
tới 2 triệu tấn lương thực. Stalin cho rằng lương thực được sản xuất
nhưng do Kulak tích trữ. Và
thay vì tăng giá thu mua, Bộ Chính Trị ra lịnh thực
hiện biện pháp khẩn cấp trưng dụng 2,5 triệu tấn lương thực.
Việc nhà nước tịch thu (ăn cướp) lương thực không làm cho nông dân hài lòng, số lượng lương thực sản
xuất bị giảm trong năm 1929, và một lần nữa chính quyền lại sử dụng biện
pháp trưng thu. Nhiều lương thực bị trưng thu từ giới trung
nông, những người chỉ đủ ăn, chứ không phải trưng thu của thành phần Kulak.
Năm 1929, sự kháng cự
đối với công
tác trưng thu trở nên rộng rãi, nhiều nơi xảy ra
bạo động nhưng khối lượng lớn lương thực tiếp tục bị cất giữ,
thường là bị mang chôn bỏ và chuyển giao bất hợp pháp. Nếu nông dân
không giấu lương thực được hoặc tìm cách khác để thanh toán vụ mùa,
họ thường thu hoạch xong mang đi đốt bỏ hoặc liệng xuống sông.
Đối diện với việc nông dân
khước từ chuyển giao lương thực, một quyết định được đưa ra
tại phiên họp toàn thể của Ủy Ban Trung Ương Đảng tháng 11/1929 để
bắt đầu chương trình Tập Thể Hóa trên toàn Liên Sô. Vài hình thức
tập thể được Ủy Viên Nhân Dân Nông Nghiệp (tương tự Bộ Nông Nghiệp) đề
nghị, sắp xếp theo mức độ tài sản công cộng như:
1/ Hiệp Hội Cùng Canh Tác
Đất: nơi chỉ có đất thuộc sở hữu chung.
2/ Artel Nông Nghiệp: đầu
tiên trong ý nghĩa lỏng lẻo, sau này được chính thức trở thành một
tổ chức căn bản của nông trại tập thể thông qua “Sự
Giới Thiệu Qui Chế Của Artel Nông Nghiệp”.
3/ Công Xã Nông Nghiệp: với
hình thức cao nhất về sở hữu công cộng, tương tự như nông trường quốc
doanh trong đó đất thuộc quyền sử hữu nhà nước, và
lao động được thuê mướn
có trả lương. Cạnh đó nhiều kiểu hợp tác được
thành lập để chế biến các sản phẩm nông nghiệp.
Bức
tranh in mang
nội
dung tuyên truyền:
“Các
đồng chí, hãy cùng đến
tham gia vào nông trại tập thể!”
Ảnh nguồn: wiki.
Artel (chữ Nga: арте́ль) là
từ ngữ tổng quát chỉ nhiều loại hiệp hội hợp tác ở Nga trong lịch sử và thời hiện đại.
Về mặt lịch sử, artel là hiệp hội bán chính thức cho nhiều loại
doanh nghiệp như ngư nghiệp, quặng mỏ, mua bán của những người bốc
vác, đốn cây, ăn cắp hay ăn mày.... Thường artel làm việc xa từ nhà
và sống như cộng đồng. Việc trả tiền cho công việc đã làm được phân
phối theo phần chia bình đẳng dựa vào thỏa thuận bằng miệng. Các
artel làm việc theo từng mùa.
Dần dần các kiểu artel
chính thức xuất hiện với đẳng cấp nội bộ và thỏa thuận pháp lý.
Trong nước Nga hiện đại, không có từ ngữ kinh doanh định nghĩa một
cách pháp lý danh
từ artel như là một kiểu hiệp hội, tuy nhiên có một
số công ty dùng từ
ngữ artel trong tên của họ, đặc biệt trong những vùng
có artel truyền thống như mỏ vàng hay đánh cá.
Tháng 11/1929, Ủy Ban Trung
Ương Đảng quyết định thi hành việc gia tốc chương trình Tập Thể Hóa
trong hình thức kolkhoz (nông trại tập thể) và sovkhoz (nông
trường quốc doanh). Điều này đánh dấu kết thúc Chính Sách Kinh Tế
Mới đã cho phép nông dân bán sản phẩm dư thừa của họ ra thị trường
công khai.
Stalin chuyển cái gọi
là Kulak tới những nông trại tập thể ở nơi xa xôi để họ làm việc
trong các trại lao động nông nghiệp, cứ một trong 5 người bị trục
xuất này bị chết, đa phần là đàn bà và trẻ em.
Có tất cả 6 triệu nông dân
bị mất mạng do điều kiện trục xuất hay lúc làm
việc trong các trại lao động nông nghiệp. Đáp ứng lại điều này,
nhiều nông dân khởi xướng cuộc kháng cự có võ trang. Để thể hiện sự bất bình, nhiều nông dân chọn việc giết gia súc để ăn còn hơn giao lại cho
nông trại tập thể, sự kiện này gây ra giảm sút rất lớn số lượng
chăn nuôi gia súc trên cả nước.
Chính Sách Tập Thể Hóa
được thúc đẩy từ “Cách Mạng Tháng 10”, nhưng trong năm 1928, chỉ có khoảng 1% đất trồng trọt bị Tập Thể
Hóa, và mặc dù cố gắng khuyến khích cũng như ép buộc nông dân vào
tập thể, Kế Hoạch Ngũ Niên Thứ Nhất lạc quan hơn chỉ tiên đoán 15%
nông dân bị điều khiển hoạt động theo hướng tập thể.
Tình trạng này thay
đổi nhanh chóng đáng kinh ngạc vào Mùa Thu 1929 và Mùa Đông 1930, giữa
tháng 9 và 12/1929, Tập Thể Hóa gia tăng từ 7,4% tới 15%. Nhưng
trong hai tháng đầu của năm 1930, 11 triệu gia đình nông
dân cùng tham gia vào nông trại tập thể đẩy tổng số lên tới gần 60%
hầu như “chỉ qua một đêm”.
Phạm Hoàng Tùng
biên soạn.
Nguồn
tài liệu tham khảo và dữ kiện trích dẫn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét