Bài 5
Cội Nguồn Của Vụ Án
Cải Cách Ruộng Đất Đẫm Máu
Ở Miền Bắc Việt Nam
Vào Thập Niên 1950
“CHOÁNG VÁNG VỚI SỰ THÀNH CÔNG”
Cái giá phải trả cho Chính
Sách Tập Thể Hóa quá cao đến nổi vào ngày 2/3/1930, báo Pravada của
đảng có đăng bài của Stalin với tựa ”Choáng Váng Với Sự Thành Công”,
trong đó Stalin kêu gọi tạm thời chấm dứt thi hành Tập Thể Hóa.
Bài báo viết “Vào ngày 20/2 năm nay, 50% đất trồng trọt của nông dân trên
khắp lãnh thổ Liên Bang Sô Viết đã được Tập Thể Hóa. Điều này có
nghĩa rằng, tới ngày 20/2/1930, chúng ta hoàn thành vượt chỉ tiêu Kế Hoạch
Ngũ Niên của Chương Trình Tập Thể Hóa hơn 100%...Một số đồng chí
chúng ta bị chóng mặt với thành công và trong khoảnh khắc đã mất bình tỉnh và sự trong
sáng của tâm trí .”.
Sau khi bài báo nói trên được đăng tải, sức
ép cho việc Tập Thể Hóa tạm thời giảm xuống và nông dân bắt đầu
rời khỏi các nông trại tập thể.
Theo Martin
Kitchen (Giáo Sư Danh Dự môn lịch sử tại Simon Fraser University, chuyên gia đặc biệt trong
lịch sử hiện đại của
Châu Âu, nhưng nhấn mạnh về Đức) cho biết số lượng thành viên các nông trại tập thể giảm xuống 50%
trong năm 1930.
Nhưng không bao lâu sau,
Chính Sách Tập Thể Hóa được gia tăng cường độ trở lại và tới năm
1936, khoảng 90% nông dân Sô Viết bị đưa vào hoạt động tập thể, xóa
bỏ quyền tư hữu cá nhân của nông dân.
Nông dân có cả con nhỏ đi theo
biểu tình phản đối Tập Thể
Hóa
tại Ukraine.
Ảnh nguồn:
PHẢN ỨNG CỦA NÔNG DÂN
Về mặt lý thuyết, nông dân không có đất canh tác là người
hưởng được lợi ích lớn nhất từ Tập Thể Hóa, bởi vì nó hứa hẹn
cho họ cơ hội nhận được phần chia bình đẳng trong lao động và các
phần thưởng.
Tuy nhiên ở vùng quê
không có bao nhiêu nông dân không có ruộng đất, thường thì họ đã được
tái phân phối đất hàng loạt sau “cách mạng”, vì
thế hầu hết những kẻ không đất là ghiền rượu, lười biếng, và
không khả năng làm việc.
Nhưng đối
với nông dân có tài sản, Tập Thể Hóa có nghĩa là buông xuôi tất cả
cho nông trại tập thể, và bán hầu hết thực phẩm họ làm ra cho nhà nước với giá tối
thiểu do chính nhà nước ấn định, vì thế họ chống lại ý kiến Tập
Thể Hóa.
Hơn nữa Tập Thể Hóa liên
hệ tới thay đổi quan trọng trong đời sống làng xóm truyền thống của
người Nga ở
khoảng thời gian rất ngắn, mặc dù nông thôn Nga từ lâu
chịu ảnh hưởng Chủ Nghĩa Tập Thể.
Nhiều thay đổi gây
xúc động hơn ở những địa phương khác như Ukraine với truyền thống nông
nghiệp cá thể, hay ở các Cộng Hòa Trung Á, và ở vùng Volga nhiều
đồng cỏ mênh mông, nơi mỗi gia đình có đàn gia súc không chỉ là vấn
đề dinh dưỡng mà còn là niềm kiêu hãnh gia đình.
Nhiều nông dân phản đối Tập
Thể Hóa và thường đáp trả bằng hành động phá hoại bao gồm đốt
cháy vụ mùa, tàn sát loại gia súc dùng làm sức kéo trong nông trại.
Theo nguồn tin từ đảng, cũng có trường hợp phá hủy tài sản, tấn
công vào viên chức và thành viên của nông trại tập thể.
Isaac Mazepa, cựu
Thủ Tướng (1919-1920) của Cộng Hòa Dân Tộc Ukraine* khẳng
định rằng “Thảm họa năm 1932 là hậu quả của kháng cự tiêu cực...những
vùng đất mênh mông không được bàn tay con người gieo trồng, hơn 50% vụ mùa
bị bỏ ngoài cánh đồng, hoặc không thu thập hoặc phá hủy trong máy
đập lúa”.
HẬU QUẢ
Hậu Quả
Chung Trên Toàn Liên Bang
Do nông dân phải nhận chỉ
tiêu sản xuất cao của chính quyền, như một qui luật, họ lại lao động
ít hơn so với trước khi vào nông trại tập thể. Thật thế, theo nghiên
cứu của Merle
Fainsod cho biết, năm 1952 các nông trại tập
thể chỉ tạo được 1/4 lợi tức (tiền mặt) từ những miếng đất tư trong
nông trại tập thể.
Trong nhiều trường
hợp, hậu quả lập tức của Tập Thể Hóa là làm giảm sản lượng ngũ cốc, và
hầu như giảm phân nửa số lượng gia súc chăn nuôi. Sự phục hồi sau đó
của sản xuất nông nghiệp cũng bị ngăn chận do sự chịu
đựng tổn thất của Sô Viết trong Đệ Nhị Thế Chiến, và
nạn đói nghiêm trọng năm 1946.
Chưa hết, tổn thất to lớn
của Tập Thể Hóa còn gây ra cho mọi loại gia súc trên toàn Liên Bang.
Số bò giảm từ 33,2 triệu con trong
năm 1928 xuống còn 27,8 triệu con trong 1941, và
còn 24,6 triệu con
trong năm 1950.
Số lượng heo giảm từ 27,7
triệu con trong năm 1928 xuống còn 27,5 triệu con trong 1941, và
kế đến xuống còn 22,2 triệu con trong 1950.
Số cừu giảm từ 114,6 triệu
con trong năm 1928 xuống còn 91,6 triệu con năm 1941, và
còn 93,6 triệu con
trong 1950.
Số lượng ngựa giảm từ 36,1
triệu con trong năm 1928 xuống còn 21 triệu con trong năm 1941, và
chỉ còn 12,7 triệu
con trong năm 1950.
Vào cuối thập niên 1950, số
lượng gia súc của Sô Viết mới tăng lên tới mức của năm 1928 đã có.
Điều này cho thấy, chỉ trong lĩnh vực chăn nuôi, chế độ Sô Viết đi
lùi lại gần 30 năm. Tập Thể Hóa không giúp cho nông dân cải tiến đời
sống cho tốt đẹp, no đủ hơn, trái
lại còn đẩy cuộc đời họ vào chỗ đói kém, lạc hậu, mất tự do.
Nông
dân đang gieo hạt
Ảnh nguồn: wiki.
Giữa năm 1929 và 1932 có
sút giảm nghiêm trọng trong sản lượng nông nghiệp và nạn đói ở miền
quê. Vào năm 1932-33, Liên Sô có những mùa gặt tồi tệ, điều này không
ai mong chờ, nhưng không thể không chịu ảnh hưởng từ Chính Sách Tập
Thể Hóa.
Đảng Cộng Sản Liên Sô
liền qui trách nhiệm cho Kulak đã làm cho sản lượng nông nghiệp sụt giảm vì
chống đối của họ với Tập Thể Hóa. Kulak cũng bị cho là cất giấu
lương thực để đầu cơ tích trữ chờ giá cao mới bán kiếm lời.
Chính quyền Sô Viết đáp
trả hành động này bằng cách cắt khẩu phần nông dân và tại những
vùng có chống đối Tập Thể Hóa, đặc biệt ở Ukraine.
Vào ngày 7/8/1932,
Sắc Luật “Về Bảo Vệ Tài Sản Xã Hội Chủ Nghĩa” (Luật Spikelets)
tuyên bố trừng phạt bằng án tử hình (mang ra bắn chết chứ không treo cổ) dành cho kẻ ăn
cắp tài sản trong nông trang tập thể hay tài sản hợp tác. Tuy
nhiên “dưới những hoàn cảnh giảm nhẹ tội” có
thể được thay thế bằng án tù giam ít nhất là 10 năm, thế nhưng luật
không qui định việc ân xá cho nạn nhân.
Với những gì được
gọi là “Luật Spikelets” (Spikelets/ ngũ cốc rơi rớt), thì những nông
dân bao gồm cả trẻ em dùng tay thu lượm lương thực rơi rớt ngoài cánh
đồng tập thể sau mùa gặt sẽ bị bắt giữ vì làm tổn hại tới năng
suất lương thực của nhà nước.
Phần
I của luật bao gồm tội ăn cắp ở khu vực hỏa xa và các phương tiện
liên lạc ở vùng có nước.
Phần
II bao gồm tội ăn cắp tài sản của nông trang tập thể và hợp tác.
Phần
III bao gồm tội hăm dọa các thành viên nông trang tập thể. Hình
thức trừng phạt là bị giam
trong trại tập trung từ 5 tới 10 năm.
Martin Amis (sinh ngày 25/8/1949, tác
giả truyện ngắn, tiểu luận kiêm tiểu thuyết gia người Anh) viết trong
tác phẩm “Koba the Dread” (Koba là biệt danh của Stalin, còn
chữ dread là kinh sợ, khiếp đảm), nói
đến số lượng án phạt dành cho
những trường hợp vi phạm đặc biệt theo “Luật
Spikelets” là 125.000 người
trong những lúc mùa màng thất thu vào thời gian từ tháng 8/1932 tới
tháng 12/1933.
Hàng trăm ngàn người phản
đối Tập Thể Hóa bị mang đi hành quyết hay bị gửi vào trại cưỡng
bức lao động. Nhiều gia đình nông dân bị cưỡng bức tái định cư ở
Siberia và Kazakhstan trong những khu định cư lưu đày và một số lượng đáng kể bị chết
trên đường trục xuất.
Ước lượng rằng có khoảng 1 triệu gia đình Kulak
hay 5 triệu người bị giải giao tới các trại lao động. Số
người chết vì đói và bịnh tật do Tập Thể Hóa gây ra trực tiếp là
khoảng từ 4 tới 10 triệu người.
Theo con số chính
thức do Sô Viết đưa ra thì có 24 triệu nông dân biến mất khỏi miền quê
trong đó có 12,6 triệu người đi làm công việc cho nhà nước. Điều này
hàm ý rằng, con số thiệt hại trực tiếp và gián tiếp tác hại đến người
dân khi nhà nước thi hành Chính Sách Tập Thể Hóa là có 12 triệu người bị chết.
*Cộng Hòa Dân Tộc Ukraine: một Cộng
Hòa chết non, nằm trong lãnh thổ Ukraine hiện đại sau “Cách Mạng Nga”, khác với Ukraine Cộng Sản
thân Nga.
**Avel Enukidze hay Avel Safronovich Enukidze (1877-1937), một nhân vật nổi bật của
Bolshevik, ông đã viết quyển sách danh tiếng về lịch sử máy in của
Bolshevik ở Caucasus, trong đó tấn công chế độ Nga Hoàng, dưới sự chỉ đạo của Lenin.
Không bao lâu sau, Enukidze bị
tố cáo đã chủ tâm làm giảm giá trị đóng góp của Stalin trong lĩnh vực máy in mặc dù Stalin
chẳng có đóng góp
gì cả. Tháng 7/1935, Enukidze bị gọi ra
trước phiên họp Ủy Ban Trung Ương Đảng để nói về việc này, sau đó ông
bị khai trừ khỏi đảng.
Ba năm sau Enukidze bị bắt
giữ, xét xử và rồi bị mang đi bắn
bỏ. Về sau, Enukidze được phục hồi như là
nạn nhân của Stalin.
Phạm Hoàng Tùng
biên soạn.
Nguồn
tham khảo và dữ kiện được trích dẫn từ:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét