Hoàng Đế Cộng Sản Stalin
Phần
Cuối
CÁC ĐỒNG CHÍ QUYẾT CHÍ TRANH CHIẾM QUYỀN LỰC
SAU CÁI CHẾT CỦA STALIN
Tại cuộc họp kín của những nhân vật hàng đầu trong
Chủ Tịch Đoàn diễn ra ngay sau cái chết của Stalin, Beria đề nghị Malenkov
giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng
(Thủ Tướng).
Georgy
Malenkov
(1902-1988).
Ảnh nguồn:
wiki
|
Malenkov cũng trở
thành Bí Thư Thứ Nhất của đảng, nhưng sau lại từ bỏ chức vụ này ngày 14/3/1953
vì nhiều kẻ
cầm đầu đảng bày tỏ bất đồng Malenkov kiêm nhiệm hai chức
vụ lãnh đạo.
Mặc dù quá khứ Beria là một trong những kẻ cầm đầu
trung thành và tàn bạo nhất thời kỳ Stalin ngồi trên chiếc “ngai vàng
Cộng Sản”, nhưng khi Stalin chết, Beria lại trở thành người
đi đầu trong chủ trương loại bỏ ảnh hưởng chủ nghĩa độc tài Stalin
trong Đảng Cộng Sản Liên Bang Sô Viết và tự do hóa xã hội.
Điều này dường như
là phương tiện giúp Beria vận động giành sự ủng hộ của đảng
để ông ta trở thành Hoàng
Đế Cộng Sản. Beria không những tố cáo công khai “Âm Mưu Của Các Bác Sĩ” là trường hợp bịa
đặt chủ định, nhưng
còn cho phép phóng thích hàng trăm ngàn tù chính
trị ra khỏi nhà
tù Gulag ghê rợn mà Beria có nhúng tay vào trong việc
bắt giữ trước đây.
Beria lại còn
chủ trương chính sách tự do cho các dân tộc thiểu số trong Liên
Bang (những dân tộc không phải là dân Nga trắng chính thống) như vậy có
thể làm đảo lộn chủ trương nước Nga thống nhất có hàng thập niên qua.
Beria thuyết phục Chủ
Tịch Ðoàn và Hội Ðồng Bộ Trưởng đòi hỏi chế độ Ulbricht ở Đông Đức làm chậm lại công cuộc
“kiến thiết Chủ Nghĩa Xã Hội” và xây dựng nền kinh tế tự do, cải cách chính trị.
Ngày 13/1/1953, sự kiện chống Do Thái rộng rãi nhất trong Liên Bang Sô Viết được
khởi xướng từ bài báo trên tờ Pravda mà sau này được
biết với tên
gọi “Âm Mưu Của Các Bác Sĩ”.
Một số bác sĩ nổi
bật nhưng là người Do Thái đã
bị bắt giữ vì bị tố cáo âm mưu đầu độc các
lãnh đạo cao cấp của Liên Bang Sô Viết. Cùng lúc đó, chiến dịch
chống Do Thái cuồng loạn tràn lan trên phương tiện truyền thông
đại chúng do Ðảng Cộng Sản Liên Sô kiểm soát chặt chẽ.
Hậu quả 37 bác sĩ (trong đó có 17 người gốc Do Thái) bị bắt giữ. Và theo lịnh
Stalin, cơ quan
an ninh MGB chuẩn bị trục xuất toàn
thể người Do Thái đến miền Viễn Đông Nga. Sau khi Stalin chết, Lavrenty Beria phóng thích tất cả bác sĩ,
thông báo sự kiện này
bị bịa đặt.
Dự tính trục
xuất người Do Thái không bao giờ xảy ra.
Một bức
hoạt họa
trong Tạp Chí "Krokodil"
tháng Giêng/1953
của Sô Viết
biểu hiện hành động
“Vạch trần âm mưu của
bọn Do Thái”.
Ảnh nguồn: wiki.
Stalin chết ngày 5/3/1953, 4
ngày sau cơn suy sụp cả đêm kể từ bữa ăn tối với Beria và các lãnh
đạo Sô Viết khác. Hồi ký chính trị của Ngoại Trưởng Vyacheslav Molotov xuất
bản năm 1993
(sau khi ông chết) ghi
lại sự kiện Beria huênh hoang nói với Molotov rằng chính
Beria đã đầu độc Stalin.
Câu chuyện về vụ
những tay chân thân tín của Beria đầu độc Stalin được Nhà Văn kiêm Sử Gia Nga Edvard Radzinsky viết một cách chi tiết trong tác phẩm của ông nói về Stalin: The First In-Depth Biography Based on Explosive New
Documents From Russia's Secret Archives (Tập Tiểu Sử Đặc Biệt Đầu Tiên Dựa Trên
Sự Bùng Nổ Các Tài Liệu Mới Từ Hồ Sơ Mật Của Liên Sô).
Cũng có các chứng
cứ ghi nhận rằng: nhiều
giờ sau khi người ta tìm thấy Stalin bị hôn mê, vị Hoàng Đế đã không được chữa trị nhanh chóng.
Rất có thể tất cả người cầm đầu Sô Viết lúc đó
- những kẻ rất sợ hãi Stalin - đã
đồng ý cứ để cho Stalin chết
đi mà không cần phải cứu chữa gì hết.
Khrushchev viết trong hồi
ký: “Ngay sau khi Stalin trúng độc và ngã quỵ, Beria buông ra những lời căm ghét và chế
nhạo Stalin, nhưng khi Stalin có dấu hiệu hồi tỉnh, Beria lại quỳ
xuống cầm tay Stalin hôn, đến khi Stalin rơi vào trạng thái hôn mê lần
nữa, Beria lập tức đứng dậy và phun nước miếng tỏ thái độ khinh khi”.
Về mặt chính thức, nguyên
nhân cái chết của Stalin là do xuất huyết não.
Vào năm 2003, nhóm sử gia phối hợp giữa Mỹ và Nga thông báo quan điểm của họ: Stalin nuốt phải chất
warfarin, loại
thuốc độc giết chuột cực mạnh, dễ hòa tan trong nước,
khiến cho sự tuần hoàn của giòng máu trong cơ thể bị
xáo trộn dẫn tới hiện tượng xuất huyết não (cerebral
hemorrhage).
Vì ít ai chú ý đến chất warfarin nên nó trở thành vũ khí đáng tin cậy cho kế họach mưu sát.
Nikita
Sergeyevich
Khrushchev
(1894– 1971).
Ảnh nguồn: wiki. |
Nhiều nhân vật lãnh đạo
trong đảng lo sợ Beria, đặc biệt Khrushchev thấy Beria là đối thủ nguy
hiểm nhất.
Khrushchev không thể
giành được sự ủng hộ từ số người bảo thủ trong Chủ Tịch Đoàn như Molotov cho đến
khi một trong các sáng kiến Beria - chính sách Đông Đức - dẫn
đến tai họa cho quyền lực Sô Viết.
Beria khẩn đòi chính quyền
Cộng Sản Đông Đức phải gửi tới quần chúng các tín
hiệu chứng tỏ chế độ cai trị đang cởi mở nhằm gây nên tâm lý chờ đợi
tương lai trong dân chúng
nhưng khi chính quyền tỏ thái độ bất nhất trong
việc thực hiện thay đổi như hủy bỏ chương trình gia tăng năng suất lao
động khiến nổ ra phong trào biểu tình của quần chúng dẫn đến hậu
quả đe dọa sự tồn tại của chính quyền, ngay lập tức chính quyền
lại đàn áp thô bạo với trợ giúp của quân đội Sô Viết (cuộc nổi dậy năm 1953 ở Đông Đức).
Các biến cố ở Đông Đức
thuyết phục nhóm bảo thủ và ủng hộ Beria như Vyacheslav Molotov, Malenkov và
Bulganin thấy chính sách Beria nguy hiểm, gây bất ổn định cho quyền
lực Sô Viết
(chính sách Beria đối với các sắc tộc trong Liên
Bang Sô Viết được coi là mối đe dọa đến sự thống nhất của chính Liên
Bang).
Những ngày sau biến
cố Đông Đức, Khrushchev thuyết phục Molotov, Malenkov và Bulganin (1895-1975) ủng hộ cuộc nổi dậy chống Beria.
Tháng 6/1953,
ba tháng sau cái chết Stalin, các thành viên Chủ Tịch
Đoàn, sau đổi tên lại là Bộ Chính Trị, dưới sự kích
động của Khrushchev đồng ý mai phục Beria tại cuộc họp Bộ Chính Trị gây
ngạc nhiên cho Beria khi các sĩ quan quân đội được lịnh bắt giữ ông.
Beria bị xét xử và bắn chết vào tháng 12/1953 mặc dù Khrushchev sau này có tuyên bố chính ông bắn hạ Beria vào tháng
6 trong cuộc họp Bộ Chính Trị.
Khi Beria, đồng minh của
Malenkov bị loại ra, giờ đây Khrushchev ở tư thế vượt trội hơn Malenkov
trên con đường tranh chiếm quyền thừa kế chiếc ngai vàng của lãnh tụ Cộng Sản độc tài Stalin.
Phạm Hoàng Tùng
biên soạn.
Nguồn
tham khảo và dữ kiện được trích từ:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét