CUỘC THẢM SÁT TẠI KATYN
PHẦN
HAI
Bối
Cảnh Cuộc Thảm Sát Katyn
Tổng Quát Về Cuộc Thảm Sát Ở Katyn
Vụ Thảm Sát
Katyn còn được
biết với tên gọi Cuộc Thảm Sát Ở Khu Rừng
Katyn, trong
chữ Ba Lan là: zbrodnia katyńska (Tội Ác Katyn), đây là vụ hành quyết tập
thể các công dân Ba Lan do lịnh của chính quyền Sô Viết và cơ quan an
ninh NKVD trực tiếp chỉ đạo
trong năm 1940,
ước lượng có từ 15.000 tới 21.768 người Ba Lan bị hành
quyết.
Khoảng 8.000 nạn nhân là sĩ
quan Ba Lan bị bắt làm tù binh trong suốt cuộc chiến tranh xâm lược
Ba Lan năm 1939 do Liên Bang Sô Viết
tiến hành, phần còn lại là công dân Ba Lan bị bắt với tội
danh nhân viên tình báo, hiến binh, điệp viên, kẻ phá hoại, phú nông
địa chủ, chủ nhà máy và viên chức.
Từ khi Ba Lan thi hành
lịnh động viên bắt buộc đối với người tốt nghiệp đại học để trở
thành sĩ quan trừ bị trong quân đội đã tạo cho Liên Sô cơ hội bắt thêm
nhiều trí thức Ba Lan cũng như các trí thức Do Thái, Ukraine, Georgia,
Belarus có quốc tịch Ba Lan.
Năm 1943 quân đội Quốc Xã Đức “khám phá” các
ngôi mộ tập thể tại rừng Katyn sau khi chiếm đóng khu vực này năm 1941
đã làm suy sụp nhanh chóng mối quan hệ ngoại giao giữa Liên Sô và
chính quyền Ba Lan lưu vong ở London.
Liên Sô tiếp tục phủ nhận trách nhiệm, mãi cho tới năm 1990 Liên
Sô mới chịu thú nhận rằng cảnh sát mật NKVD đã nhúng tay vào tội ác và che giấu
ngay sau đó.
Chính quyền Cộng Hòa Liên Bang Nga (khi
Cộng Sản Liên Sô đã sụp đổ) thừa nhận trách nhiệm của
Liên Bang Sô Viết đối với tội ác Katyn mặc dù họ chưa định rõ tội
ác đó là tội ác chiến tranh hay diệt chủng, điều này cần thiết cho
việc truy tố tội phạm còn sống sót cũng như theo yêu cầu của chính
quyền Ba Lan.
Chính quyền Cộng Hòa Liên Bang Nga cũng chưa qui
định những người chết thuộc thành phần nạn nhân của
chính sách đàn áp của Chủ Nghĩa Stalin, điều này cũng ngăn cản cho việc phục
hồi danh dự và truy tặng chính thức.
Sơ đồ khu vực Katyn.
Ảnh nguồn: Thảm sát Katyn.
Bối Cảnh Xảy Ra
Vụ Thảm Sát
Ngày 17/9/1939, Hồng Quân Cộng Sản
Liên Sô từ phía Đông khởi đầu cuộc xâm lược lãnh thổ Ba Lan, hành động
này diễn ra sau khi Ba Lan đã chịu đựng thất bại nghiêm trọng ở mặt
trận phía Tây lúc Quốc Xã Đức tiến quân xâm lược Ba Lan ngày 1/9/1939.
Liên Sô cho rằng hành động tiến đánh
Ba Lan như vậy để bảo vệ tuyên bố của họ theo Hiệp Ước Molotov -
Ribbentrop ký ngày 23/8/1939 tại Mosscow.
Trên danh nghĩa đây là một Thỏa Ước
Bất Tương Xâm giữa Đức Quốc Xã - Cộng Sản Liên Sô, với Ngoại Trưởng Vyacheslav Molotov thay mặt cho Sô Viết, và
Ngoại Trưởng Joachim von Ribbentrop đại diện Đức Quốc
Xã.
Nhân đây cá
nhân chúng tôi có đôi hàng về Hiệp Ước này. Vào năm 1939 cả Phát Xít Hitler và
Cộng Sản Liên Sô đều không sẳn sàng gây chiến tranh với nhau. Liên Sô đã mất
một ít lãnh thổ vào tay Ba Lan năm 1920.
Mặc dù chính thức được đặt tên “Hiệp Ước
Không Xâm Lược Lẫn Nhau”, Hiệp Định này bao gồm cả một Nghị Định Thư Bí Mật
trong đó các quốc gia độc lập như Phần Lan, Estonia, Latvia, Lithuania, Ba Lan
và Romania bị phân chia trong cái gọi là “khu vực lợi ích” của Liên Sô và Đức.
Nghị Định Thư Bí Mật tóm tắt một cách rõ
ràng như sau: “Tái sắp đặt chính trị và lãnh thổ”
trong những vùng thuộc các quốc gia độc lập nói trên.
Sau này tất
cả những nước như Phần Lan, Estonia, Latvia, Lithuania, Ba Lan và Romania đều
bị xâm lăng, chiếm đóng hay bị cưỡng bức phải nhường một phần lãnh thổ cho Đức
hay Liên Sô hoặc cho cả hai.
Cuộc tiến công nhanh chóng
của Hồng Quân chỉ gặp sự kháng cự nhỏ, từ 250.000 tới 454.700 quân nhân
Ba Lan bị Sô Viết bắt làm tù binh. 250.000 người được Hồng Quân
thả sau thời gian ngắn, trong khi đó chừng 125.000 tù binh bị chuyển
giao cho NKVD.
Sau đó NKVD nhanh
chóng phóng thích 42.000 người lính. Ước lượng có tới 170.000 quân
nhân thuộc sắc tộc Ukraine, Belarus phục vụ trong quân đội Ba Lan cũng
được phóng thích.
43.000 quân nhân sinh ở
Tây Ba Lan lúc bây giờ đang bị Đức chiếm đóng thì được Sô Viết chuyển
giao cho Đức.
Đến thời điểm 19/11/1939, NKVD có trong tay 40.000 tù binh Ba Lan, bao gồm:
8.500 sĩ quan, 6.500 sĩ quan cảnh sát, 25.000 binh sĩ.
Sơ đồ các trại giam tù binh Ba Lan
ở Tây Ukraine.
Ảnh nguồn: Thảm Sát Katyn.
Trước ngày 19/9/1939, Ủy Viên Nhân Dân
Nội Vụ - ủy viên đẳng cấp số một của bộ máy an ninh nhà nước Liên
Sô – là Lavrenty Beria ra lịnh cho NKVD thành lập Ủy
Ban Tù Binh Chiến Tranh để giải quyết vấn đề tù binh Ba Lan.
Cơ quan an ninh mật NKVD thay thế Hồng
Quân trong công tác tạm giam tù binh Ba Lan và xúc tiến tổ chức hệ
thống trung tâm tiếp nhận, trại chuyển tiếp, đường rầy vận chuyển tù
binh tới các trại tù binh chiến tranh ở phía Tây Liên Sô.
Những trại tù này nằm ở
các vị trí Jukhnovo (ga xe lửa Babynino),Yuzhe (Talitsy),
Kozelsk,
Kozelshchyna, Oranki, Ostashkov (quần đảo Stolbnyi trên hồ
Seliger gần
Ostashkov), ga xe lửa Tyotkino (cách Putyvl 90 km), Starobielsk,
Vologda
(ga xe lửa Zaenikevo), và Gryazovets.
Trại Kozelsk
và
Starobielsk thì được sử dụng chính yếu cho việc giam giữ sĩ
quan quân đội, trong khi đó Trại Ostashkov được dùng để giam lính
trinh sát, hiến binh, sĩ quan cảnh sát và viên chức nhà tù.
Các trí thức Ba Lan
cũng bị giam giữ tại các trại trên. Ước lượng sự phân phối số tù
nhân trong các trại như sau: Kozelsk có 5.000, Ostashkov có 6.570,
Starobelsk có
4.000, tổng số có
15.570 tù nhân Ba Lan bị giam giữ.
Thời gian bị
giam giữ từ tháng 10/1939 tới tháng 2/1940, tù nhân Ba Lan là đối
tượng cho những cuộc thẩm vấn kéo dài và thường xuyên bị các nhân
viên NKVD
kích động chính trị.
Tù nhân Ba Lan được
khuyến khích rằng họ sẽ được thả ra. Nhưng các cuộc thẩm vấn chỉ
là tiến trình phân loại coi ai sẽ được sống và ai sẽ phải chết.
Theo các báo cáo của
NKVD, những tù nhân này không thể được thuyết phục để lựa chọn thái
độ ủng hộ Liên Sô, họ bị tuyên bố là “kẻ thù không nhân nhượng và
ngoan cố” của chính quyền Sô Viết.
Ngày 5/3/1940, để thực hiện đề nghị
trước đây của Lavrenty
Beria gửi cho Stalin, các thành viên Bộ Chính Trị gồm: Stalin, Vyacheslav Molotov, Lazar
Kaganovich, Mikhail Kalinin, Kliment Voroshilov, Anastas
Mikoyan, và Beria đã ký lịnh hành
quyết 25.700 “thành
phần phản cách mạng và quốc gia Ba Lan” đang bị giam giữ
tại các trại và nhà tù ở vùng đã chiếm đóng thuộc Tây
Ukraine và Belarus.
Phạm Hoàng Tùng
biên soạn.
Nguồn
tham khảo và dữ kiện được trích từ:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét