Mỗi người được tạo hóa ban
cho duy nhất một cuộc sống trân quí. Không có bất kỳ ai nhân danh một chủ thuyết
nào, một hệ tư tưởng nào, một chính nghĩa tranh đấu nào để mà xuống tay tàn độc
đối với đồng loại đồng bào đồng hương của họ.
Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất
Giải Phóng Việt Nam hay Mặt Trận Hoàng Cơ Minh còn được gọi là Việt Tân đã nhân
danh đại cuộc đấu tranh chống Cộng Sản độc tài để có độc quyền hành hình các
kháng chiến quân yêu nước trong khu chiến.
Còn những người cầm đầu Mặt
Trận hay Việt Tân mang tội giết người, tham nhũng, đục khoét công quĩ, chứa chấp
tệ nạn gia đình trị trong Đảng Canh Tân Cách Mạng Việt Nam (Việt Tân)
thì lại sống tự do sung sướng ngoài vòng pháp luật. Đây là cái gì khi lương tâm
con người tự hỏi???
Chỉ có kẻ sống bằng cái đầu
người khác, chỉ có ai đồng lõa với cái ác mới lặng thinh hay hót theo kẻ giết
người!!!
Ngày 12/11/2.015
Phạm Hoàng Tùng –
Nhà Sáng Lập Chủ Thuyết Dân Quốc Việt và Liên Minh Dân Việt Hành Động Vì Hiến
Pháp Tự Do.
Trích từ Hồi Ký Hành Trình
Người Đi Cứu Nước.
Trích từ Hồi Ký Hành Trình
Người Đi Cứu Nước.
Hình minh họa tội ác giết đồng loại
nhân danh hòa bình!!!
nhân danh hòa bình!!!
Hình của Đài Truyền hình Mỹ
PBS dựa theo
Hồi Ký Hành Trình Người Đi Cứu
Nước
Ảnh nguồn: https://www.propublica.org/article/terror-in-little-saigon-vietnam-american-journalists-murdered
Định
Mệnh Đen Tối Đã Dành Cho Lưu Tuấn Hùng,
Một
Người Bạn Không Thân Của Tác Giả
Khi
Còn Hoạt Động Cho MT Trong Trại Tỵ Nạn Sikhiu.
Lưu
Tuấn Hùng trong khóa C.2 chúng tôi cũng không thoát khỏi định mệnh đen
tối trong khu chiến, dường như đợi anh, dành sẵn cho anh.
Vào
tháng 2 năm 1984, khi bước vào khu chiến, một thời gian ngắn, sau khi
thụ huấn xong khóa học căn bản của người kháng chiến quân Việt Nam,
lúc tôi đang công tác ở tiền đồn Tây Đô tại căn cứ 81, đó cũng là
thời gian anh em trong khóa C.2 được cấp trên phổ biến tin tức về hành
động sai trái của Lưu Tuấn Hùng.
Theo
sự phổ biến công khai tội trạng này, Lưu Tuấn Hùng khi còn làm công
tác tuyển mộ kháng chiến quân tại trại tỵ nạn Si Khiu - Thái Lan, đã
lường gạt và tham ô tiền bạc của MT, do chiến hữu Nguyễn Kim đại
diện cho MT lúc đó giao cho.
Ngoài
ra, khi vào khu chiến, Lưu Tuấn Hùng đã không an tâm công tác như các
kháng chiến quân khác, trái lại Hùng đưa ra điều kiện là MT phải cho
anh đi về Việt Nam công tác cho MT ngay, hoặc cho Hùng quay lại trại tỵ
nạn làm công việc tuyển mộ tiếp.
Khi
MT không thể thỏa mãn các điều kiện do Hùng nêu lên vì MT luôn muốn
giữ kín vị trí đã được chọn để thiết lập khu chiến, giữ kín sinh
hoạt cùng số lượng kháng chiến quân trong khu chiến để cộng đồng VN lưu
vong và ngay cả bạo quyền Hà Nội không thể đánh giá thực lực.
Khi
biết MT im lặng và không thể nào thỏa mãn được cũng như không bao giờ
muốn thỏa mãn các điều kiện của mình, Lưu Tuấn Hùng chán chường,
thất vọng cuộc sống trong khu chiến mà anh đã quyết định chọn đi vào
nơi này một cách bồng bột khi đang chịu cảnh bị giam trong trại tỵ
nạn Sikiu.
Sau
đó, Lưu Tuấn Hùng rủ rê một chiến hữu đang ở gần Hùng, hãy bỏ khu
chiến, trốn về trại tỵ nạn vì Hùng khá giỏi tiếng Thái. Chiến hữu
này đem chuyện Hùng dự tính bỏ trốn hàng ngũ kháng chiến quân, báo
cáo lên cấp trên. Thế là Hùng bi xiềng chân, có lúc bị bịt mắt, như
là một hình thức tạm giam tại tiền đồn Bạch Mã, chờ quyết định thi
hành kỷ luật của MT.
Một
buổi sáng nọ khi dưới vòm cây rừng cao thẳng tắp còn phủ một màn
sương mỏng, khoảng tháng 3 năm 1984, các kháng chiến quân trong khóa C.2
đang đứng trò chuyện giây lát, có người ngồi dựa gốc cây hút một
điếu thuốc rê sau bữa cơm sáng, chờ tập hợp nhận công tác trong ngày,
trên bãi đất nhỏ, gần nhà bếp tập thể, dọc theo con đường mòn đi
xuống tiền đồn Hồng Lĩnh ở hướng Nam căn cứ 81…
Tôi
bỗng thấy chiến hữu Nguyễn Huy, Kháng Đoàn Trưởng, tay cầm cây gậy
chỉ huy, mặc cái áo ấm của quân đội miền Nam trước đây, áo dầy, dài
thân, dài tay, có dây kéo thẳng từ cổ áo xuống đến bên dưới. Cổ áo
trong của anh vẫn mang cấp bậc Kháng Đoàn như thường lệ, đó là một
khung vải hình chữ nhật nhỏ bằng ngón tay cái, màu đỏ thẫm.
Anh
Huy bước đi ngang toán chúng tôi, cách chừng 4 thước, với thái độ vội
vàng, gương mặt anh im lặng, nghiêm trang, cặp mắt liếc xéo về phía
chúng tôi, không kém phần đe dọa. Bước chân chiến hữu Huy hướng vào
khu vực cấm bên trong của căn cứ 81 dành riêng cho lãnh đạo MT cũng như
lãnh đạo Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến.
Lát
sau, tôi nghe các tiếng động hơi lạ tai, dường như âm thanh của kim loại
va chạm nhau và bị kéo lê trên đất nên mới vang lên tiếng kêu đó, nhưng
lịnh cho biết là phải quay mặt vào trong không được nhìn ra ngoài
đường mòn.
Âm
thanh khác lạ, hiếm nghe được trong khu chiến (đối với tôi vào lúc
đó), khung cảnh hơi xáo động bất thường vào buổi sáng tinh mơ lạnh
lẽo, thái độ mập mờ khó hiểu của chiến hữu Kháng Đoàn Trưởng vừa
bày ra trước mắt khiến anh em trong khóa C.2 im lặng ngó nhau, có người
lộ chút lo âu, có người phóng ra ánh mắt hơi sợ hãi, có người cúi
đầu băn khoăn suy nghĩ mông lung.
Sau
này tôi mới biết, là án tử hình đã được quyết định cho Lưu Tuấn
Hùng. Và lúc hai tai tôi nghe tiếng xích sắt va chạm nhau do chân người
bước kéo lê trên đất, là lúc Lưu Tuấn Hùng bị anh em canh gác dẫn đưa
đến vị trí thi hành bản án.
Không
hơn nửa tiếng sau, anh em trong khóa C.2 chúng tôi được lịnh cấp trên di
chuyển đến địa điểm xử bắn Lưu Tuấn Hùng. Nơi này là bãi cỏ tranh
khá rộng, không xa tiền đồn Hồng Lĩnh ở hướng Nam căn cứ
tiền tiêu 81. Ra đến bãi bắn, ngoài anh em trong khóa C.2 với gần 20
người, tôi còn thấy có nhiều chiến hữu khác trong căn cứ.
Đội
hành quyết gồm 6 kháng chiến quân, cạnh đó có chiến hữu Đội Trưởng
đội hành quyết có nhiệm vụ bắn phát súng ân huệ sau cùng. Lúc đó
chiến hữu Trần Văn Hùng tức Hùng sún làm đội trưởng đội hành
quyết.
Trong
6 chiến hữu thuộc đội hành quyết, tôi còn nhớ một chiến hữu có tên
là Hoàng, anh em thường gọi ông là Hoàng công binh, do vì công việc
của ông là làm thợ mộc trong khu chiến, và vì có tật ở chân, nên anh
em trong khu chiến còn gọi ông Hoàng là Hoàng què.
Anh
em trong khóa C.2 chúng tôi được chỉ định ngồi xếp bằng trên mặt đất,
vị trí ở phía sau lưng đội hành quyết. Hôm đó chúng tôi đa số mặc
quần áo bà ba đen, còn cầm giáo, chưa được phát súng. Từ vị trí
ngồi này, chúng tôi có thể thấy được toàn cảnh vị trí tử hình
người chiến hữu mình, Lưu Tuấn Hùng.
Đội
hành quyết tử tội mang trang phục khác nhau nhưng nghiêm chỉnh. Có
người mặc đồ Dù, có người mặc áo bà ba, quần rằn ri, có người mặc
nguyên bộ bà ba đen, cổ quấn khăn rằn, có người mang dép kháng chiến,
người mang bata cũ, người mang súng AK. 47, người mang khẩu Carbin, trên
ngực đeo một dây đạn bằng vải thô, dầy cứng, có chừng hai băng đạn
dự phòng, ôm sát vào người.
Theo
chỉ thị của chiến hữu Đội Trưởng, mỗi anh em trong đội hành quyết
sẽ phải bắn ba phát vào tội nhân đang đứng trước mặt. Phát sau cùng
dành cho viên Đội Trưởng.
Tôi
thấy Lưu Tuấn Hùng đang bị cột hai tay ra phía sau, anh đứng tựa vào
một thân cây rừng, được cắm trồng sâu xuống đất, ở gần miệng hố mới
đào lên không lâu, hố này được coi như lỗ huyệt chôn cất tội nhân sau
khi bản án được thi hành.
Hùng
bị bịt hai mắt, người anh vẫn mặc cái áo vải màu trắng mịn, tốt
và quần xanh da trời với hai ống túm ở phần gần mắt cá. Bộ quần
áo này, tôi còn nhớ anh đã mặc nó hôm rời trại tỵ nạn Sikhiu đi vào
khu chiến. Tay Hùng vẫn được cho mang cái đồng hồ dây trắng, mặt hình
chữ nhật cũng màu trắng.
Các
trang phục dân sự này được mua sắm, ăn mặc trong trại tỵ nạn, khi vào
khu chiến, mỗi tân khóa sinh đã giao lại hết cho cán bộ đời sống khu
chiến, vì nó không còn thích hợp trong rừng núi.
Tuy
nhiên, do trường hợp của Lưu Tuấn Hùng, khi mới vào khu chiến đã nảy
sinh vấn đề khác thường, nên quần áo, đồ đạc của anh được giữ lại
một chỗ. Và khi lịnh thi hành kỷ luật Hùng được ban ra, những đồ
vật cũ của Hùng được trao trả lại cho anh.
Người
Đội Trưởng đứng nghiêm phía trước, bên phải đội hành quyết, không đọc
bản án mà chỉ hô lớn: “Chuẩn bị”. Cả toán hành quyết, tay cầm súng
đứng trong tư thế nghiêm, mắt ngó thẳng về phía trước.
Chiến
hữu Đội Trưởng lại hô to: “Sẳn sàng”. Cả toán hành quyết cùng quỳ
một chân phải xuống, chĩa nòng súng về phía Lưu Tuấn Hùng và lên
đạn... rốp... rốp. Chiến hữu đội trưởng lại thét lên: “Bắn”. Tai tôi nghe
tiếng súng nổ vang, đùng... đùng... đùng...
Mắt
tôi thấy thân hình người bạn mình bị ghim bởi những viên đạn, đầu,
mình, chân anh đều bị trúng đạn. Một chân bên trái của Hùng đong đưa
nhè nhẹ, do một viên đạn trúng ngay đầu gối. Nhanh chóng kết thúc
bản án, chiến hữu Hùng sún rút khẩu súng ngắn đeo bên hông, bước
ngay tới bên cạnh Lưu Tuấn Hùng, kê nòng súng vào ngay màng tang, bắn
một phát kết liểu đời anh. Hùng ngoẹo đầu sang một bên.
Có
một chiến hữu nào đó, nhanh chóng tiến tới tháo dây trói tay Hùng
và đẩy anh té xuống hố, rồi thêm vài anh em nữa, dùng xẻng xúc đất
lấp miệng hố lại. Công việc thực hiện một bản án tử hình do MT đề
ra đã hoàn tất. Mọi người trở về căn cứ và tiếp tục công việc
thường nhật.
Tôi
không biết những khóa học khác, trong trường hợp có một đồng khóa
bị thi hành kỷ luật, anh em có nhận được lịnh di chuyển đến nơi xử
bắn, để mục kích tường tận sự việc hay không? Riêng khóa C.2 chúng
tôi đã nhận được lịnh cấp trên như các ghi nhận bên trên. Không biết
đây là hàm ý gì của MT? Một nguyên tắc khi thi hành một bản án? Hay
đó là một sự cảnh cáo ngầm những anh em còn lại?
Lưu
Tuấn Hùng đã ra đi như thế, từ giả cuộc sống trần tục này. Một thế
giới phiền tạp, chính tà lẫn lộn. Xin linh hồn anh hãy tha thứ cho
đồng đội chiến hữu mình. Cầu nguyện cho hồn anh được thảnh thơi nơi
cõi hư không miên viễn, nơi cõi bình yên vĩnh hằng, không tranh chấp,
không danh lợi, không oán thù giết hại nhau!!!
Bẵng
đi một thời gian khá lâu, có thể là hơn một năm trời, cái chết của
Lưu Tuấn Hùng bỗng được nhắc lại qua câu chuyện của chiến hữu Sự hay
còn được anh em trong khu chiến gọi thân mật là ông già Sự chăn bò.
Ông
già Sự là một người thuộc sắc tộc Khmer Nam Bộ, ông vượt biên qua
Cambodia rồi vào trại tỵ nạn đường bộ, sau đó vì lòng nhiệt tình,
ông tự nguyện tham gia kháng chiến. Do vì có tuổi và không có nhiều
sức khỏe, vào khu chiến một thời gian, ông Sự được phân công trông nom
đàn bò của khu chiến.
Hàng
ngày chiến hữu Sự thả bò từ căn cứ 81, theo hướng Nam xuống khu vực gần tiền đồn
Hồng Lĩnh cho bò ăn cỏ. Nói là đàn bò, thực ra chỉ có chừng ba,
bốn con.
Công
việc của chiến hữu Sự suốt trong những tháng năm ông sống trong khu
chiến, là sáng sớm ăn cơm xong, bỏ phần cơm trưa vào một bọc vải,
cầm cây roi đánh bò, lùa bò ra khỏi chuồng, từ đó đưa bò đi đến
phần đất cấp trên chỉ định cho ông. Chiều gần tối, ông già Sự lùa
bò về chuồng và đến cấp trên báo cáo công việc. Rồi dùng cơm tối,
sau đó nhận ca gác đêm.
Có
một hôm, khi đang đi rong gần đám tranh coi bò ăn cỏ, ông già Sự bỗng
thấy vài con chó trong khu chiến đang giành nhau, gặm tha một vật gì,
ngó kỹ lại, ông Sự thấy đó là những khúc xương.
Theo
dấu chó gặm tha, ông thấy thêm có những mảnh vải mục đã quá cũ hầu
như sắp biến thành đất, nhưng có một vật giá trị là chiếc đồng hồ
đeo tay, mặc dù đã rỉ sét vì bị chôn vùi dưới mặt đất lâu ngày. Khi
mang về căn cứ báo lại cho những anh em trong đơn vị, ông Sự mới biết
đó là cái đồng hồ của Lưu Tuấn Hùng.
Sự
thực cái hố đào chôn xác Lưu Tuấn Hùng không phải quá nông như một
cái mộ lộ thiên. Tuy nhiên, theo thời gian, vì mưa rừng nên dòng nước
chảy đã làm lộ, làm xói mòn miệng hố. Thú rừng hoang dã lang thang
đi kiếm mồi ăn trong rừng vắng, sẽ không từ bỏ con mồi dù là xác
chết đã lâu ngày.
Chuyện
chó tha xương, chỉ là giai đoạn 2, sau khi nấm huyệt vô chủ đã bị thú
rừng như heo rừng, kỳ đà đào bới, lục lọi, phá tan nát. Trong khu chiến,
chỉ những anh em chết vì MT, vì đang thi hành công tác, vì bị việt
cộng phục kích giết, thì mới được chôn cất tử tế, được nhang đèn,
hoa quả mỗi ngày, mỗi tháng.
Còn
những người là kháng chiến quân bị kỷ luật, bị xử bắn, nếu anh em
còn sống biết đích xác lỗ huyệt nơi lấp vội vàng thân xác người tử
tội, cũng không dám đến đốt nhang, cúng bái người đã khuất. MT không
có lịnh cấm hẳn hoi, nhưng làm điều đó trong khu chiến, nếu cấp trên
biết được, không có lợi gì cho người còn sống trong môi trường khu
chiến do MT quản trị.
Câu
chuyện ông già Sư đi chăn bò lượm được chiếc đồng hồ của Lưu Tuấn
Hùng được khẩu truyền trong căn cứ 81 và rồi lan rộng ra khắp khu
chiến. Từ đó hầu như không có anh em nào dám ăn thịt chó nữa.
Và
sau sự kiện đặc công việt cộng đột kích vào tiền đồn Hải Vân, để
tránh những tiếng động gây cho địch chú ý, lịnh giết hết chó trong
khu chiến được ban hành. Trước đây, do vì để đi săn mồi, cũng như nuôi
chó giữ tiền đồn và giải sầu, chó trong khu chiến được anh em kháng
chiến quân nuôi vài con ở mỗi tiền đồn, sau đó chúng cứ sanh sản
nhiều thêm ra, và từ đó cũng có món thịt chó trong đời sống khu chiến,
vốn thiếu món thịt tươi.
Trích từ Chương
23-Hồi Ký Hành Trình Người Đi Cứu Nước.
Tác Giả Phạm
Hoàng Tùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét