Người Việt chúng ta vóc dáng nhỏ bé, siêng năng, chịu khó,
và thông minh, tuy nhiên cũng lắm gian xảo, quỷ quyệt, phe đảng và thiếu đoàn kết.
Mục Sức Khỏe
trong blog chúng tôi không những nói đến phương diện thể chất như tập thể dục, ăn
uống vệ sinh, bổ dưỡng, gìn giữ môi trường trong lành…để bảo vệ sức khỏe và
giúp cải tiến vóc hình cho cao lớn khỏe mạnh nhưng còn muốn nói đến phương diện
tinh thần, tức là sức mạnh sinh ra từ truyền thống dân tộc, từ sức mạnh của văn
hóa dân tộc, từ sự tự tôi luyện của từng cá nhân ở mọi thành phần dẫn đến sự
tôi luyện, học tập của một xã hội.
Điều này là nguyên nhân làm chấn hưng sự hùng cường
mà đất nước Việt Nam
mong mỏi từ lâu nhưng đến ngày nay vẫn thua kém đồng bang chỉ vì tư tưởng chúng
ta yếu kém, bịnh hoạn như gian trá, không trung thực, ăn cắp của công, phe đảng
và thiếu đoàn kết…
Tất nhiên phải cần
thời gian dài không biết mấy thế hệ nữa mới chữa trị hết bịnh, và các liều thuốc hôm nay được trình
bày trong mục này dù đắng cay với sự thành tâm, trung thực nhưng còn hơn phải đau bịnh triền miên và lụn
bại.
Một hình ảnh giống như chuyện tức cười khi người
đứng đầu nhà nước chỉ cao tới…1,62 mét, đứng ôm một tổng thống người Nam Mỹ cao
1,9 m trong buổi gặp mặt cấp quốc gia với lễ nghi đình đám, đầy đủ quan lớn,
khách nước ngoài, ống kính truyền hình. Trông cảnh này, người không có óc tưởng
tượng phong phú cũng có thể liên tưởng đến chuyện một thằng bé đứng nhón hai
gót chân chồm lên ôm vồ ngực mẹ đòi bú. Hai người đồng cấp nhưng không đồng
kích thước. Hình ảnh đó còn cho thấy sự khác biệt về phát triển kinh tế ở mỗi
quốc gia, ngoài khác biệt về chủng tộc.
Người Việt nhỏ con, lanh lẹ, ngoài yếu tố di
truyền chủng tộc, nhưng cũng còn phải kể đến nguyên nhân chính là dinh dưỡng
trong đời sống hàng ngày, từ thế hệ này đến thế hệ kế tiếp. Có thể đưa ra trường
hợp như sau: Hai đứa bé Việt Nam sống trong hai gia đình riêng biệt, có hoàn cảnh
khác nhau, một gia đình sống tại Mỹ, một gia đình sống ở Việt Nam, tất nhiên đứa
bé ở Mỹ lớn con hơn, da thịt hồng hào, trí não cũng có điều kiện hoạt động tốt
hơn, do vì được nuôi dưỡng trong môi trường ổn định, trong đó thực phẩm phong
phú bổ dưỡng là yếu tố quan trọng.
Xin đưa ra một trường hợp nữa: một đội banh quốc
gia với hình dạng và thể lực nhỏ con hơn đối thủ thì khó giành phần thắng. Mới đấu
hết hiệp một đã gần hết sức, chạy trong hiệp 2 thì muốn lè lưỡi hết, chạy hết nổi
thì cứ đứng chờ banh tới mới đá, dù kỹ thuật đi banh có tốt nhưng vóc dáng nhỏ
yếu không thể tranh banh với đối thủ. Đây chỉ là xét trong khu vực, nếu nhìn rộng
ra châu Á, cầu thủ Việt còn lùn và ốm hơn khi so sánh với cầu thủ ba tàu, Nhật,
Hàn Quốc. Như vậy khi nào Việt Nam
mới lọt vào cúp thế giới để tranh đua với thiên hạ bốn bể năm châu? Chắc phải hơn
100 năm nữa!!!
Về thể chất, ăn uống vệ sinh, bổ dưỡng, thực
phẩm đa dạng là các điều kiện cần thiết để giúp cho cơ thể con người tăng trưởng
cân đối, khỏe mạnh. Muốn có được điều này, đời sống phải sung túc và xã hội cũng
tiến điều. Nếu chỉ một số thành phần có ăn, có mặc thì không thể làm cho cả xã
hội cùng thịnh vượng.
Tóm lại để
hình dáng con người Việt Nam
tăng tiến về chiều cao và trọng lượng thì đất nước phải ở trong tình trạng phú
cường, nhà nhà có ăn, người người không đói rách. Chừng nào đất nước mới hết cảnh
người nghèo, đói ăn để mỗi người Việt Nam đứng ngang tầm với lân bang và
thế giới? 150 năm trước đây, Việt Nam đói nghèo nên mới bị ngoại bang
xâm chiếm, đè đầu, cởi cổ. 150 năm sau, người Việt cũng không xóa được chữ đói
nghèo trong đời sống thường nhật.
Ngoài vấn đề thua thiệt về thể chất, người Việt
chúng ta còn yếu kém về tư tưởng, tinh thần, những yếu kém này làm cho người Việt
mang chứng bịnh lâu năm, gần như không có thuốc chữa trị. Và chính nhưng căn bịnh
tinh thần này đã làm cho thể chất người Việt không phát triển. Do vì nó kềm hãm
động lực phát triển của toàn thể xã hội.
Chúng
tôi liệt kê dưới đây các chứng bịnh theo thứ tự 1, 2, 3… tùy theo tính cách độc
hại của nó đối với xã hội, nói đúng hơn là đối với sự hưng thịnh của dân tộc Việt.
1/ Bịnh tham quyền
Căn
bịnh này được chúng tôi xếp ở đầu bảng vì tính chất nghiêm trọng. Trạng thái bịnh
thường xuất hiện nơi những người có trách nhiệm cao như đứng đầu một tổ chức, cộng
đồng, đoàn thể, quốc gia… do trong những tập thể lớn như thế, một khi những người
có trách nhiệm mang bịnh thì tất nhiên phải ảnh hưởng đến tổ chức, đến xã hội.
Một tổ chức mà có bịnh kinh niên, không thuốc chữa thì không thể hoạt động được,
đừng nói chi đến phát triển, tiến bộ hay làm đầu tàu cho cộng đồng, xã hội.
Một người anh
nắm quyền lãnh đạo kiêm thủ trưởng, sau đó người em lên thay, ngoài hai chức vụ
trên, người em còn chỉ huy luôn bộ phận kinh tế tài chính cộng đồng. Dù chưa xuống
lỗ, nhưng gia đình này tính kỹ hơn đồng hương, bằng cách đưa thằng cháu lên làm
đệ nhất chủ tịch. Trong lý thuyết đến ngôn từ hàng ngày, người ta luôn được
nghe những từ ngữ đao to búa bự như canh cải, cầu tiến, tự do, thế nhưng chưa
làm được gì thì gia đình này cai quản hết. Đô la có bao nhiêu cũng không cho ai
biết vì còn đang hoạt động, khi nào tổ chức đạt thắng lợi sau cùng mới chịu
công khai cho đồng bào biết.
Tại sao có học
vị Phó Thạc Sĩ kiêm Đại Giáo Sư kiêm Tổng Tiến Sĩ “chính trị học” mà gia trưởng
của dòng họ này lại làm như vậy? Họ không sợ tai tiếng trong cộng đồng sao? Hay
họ tự quyền nên không “ngán” ai? Học mà như không học. Chỉ vì lòng tham mà ra.
Có trí thức nhưng không sướng bằng khi có Mỹ Kim (hàng chục triệu hay hàng trăm
triệu đô ?) cất giấu trong ngân hàng, vì giấu đút nên không ai biết chính xác
là bao nhiêu, do vậy đó là là nguyên nhân gây đồn đoán, hoang mang trong công
luận. Người ta cứ chai mặt để làm giàu, mà muốn giàu thì phải có quyền. Chắc hơn
hết thì phải cài đặt người trong gia đình vào tổ chức và nắm hết các chức vụ cầm
đầu từ tổ chức nhân sự, đến tuyên huấn, kinh tài, công an, quân đội.
Họ chỉ có bằng
cấp, học vị chứ không có cách hành xử của người trí thức, tức là biết mình, biết
người, biết ta, biết đồng bào, có tình yêu thương đất Việt.
Tham quyền và
tham tiền như thế là hành động coi rẻ cộng đồng.
Người trong tổ
chức biết được chuyện mà không dám nói là vì đã sợ hãi quyền lực. Hay vì miếng
cơm do nhóm cầm quyền ban phát cho nên phải cúi đầu tuân lịnh (đây có phải là một
hình thức nô lệ??? giá áo túi cơm). Thấy được sự thật nhưng không dám nói là
thái độ khiếp nhược, coi trọng cái bao tử hơn lý trí, coi trọng nồi cơm gia đình
hơn danh dự tổ chức, quốc gia, coi trọng cá nhân lãnh đạo hơn danh dự tập thể.
Hành động này chỉ tiếp tay, tiếp sức nuôi dưỡng cái tham vọng của nhóm người
tham quyền.
Căn bịnh
tham quyền đã nằm trong máu của một số người Việt, tất nhiên không ít, vì nó có
thể đã lây lan đến nhiều thành phần trong xã hội chúng ta. Bịnh kinh niên này
không phải có gần đây, hay chỉ đóng khung trong phạm vi tổ chức, trái lại nó thường
xuyên xuất hiện ở phạm vi quốc gia, ở thượng tầng quyền lực.
Tính từ
thời điểm 1945 trở về trước, với chiều dài thời gian mấy ngàn năm khi Việt Nam
sống dưới thời phong kiến, quân chủ tập quyền, vào thời kỳ mà vua được coi như
thiên tử (con trời) và người dân chỉ biết cúi đầu tùng phục ngoan ngoãn. Mọi việc
hệ trọng của quốc gia chỉ được quyết định bởi một cá nhân hay dòng họ hoặc của
một triều đình (nhóm người).
Trong chế độ quân chủ tập quyền, vua là trên
hết; hoàng gia có nhiều bổng lộc của xã hội dành cho; quan lại, triều thần là lớp
người có quyền hưởng thụ cao hơn rất nhiều so với đại đa số dân chúng.
Suốt mấy ngàn năm, đất nước Việt Nam sống
trong một xã hội lạc hậu như thế nên người dân Việt đã thấm nhuần thói quen chịu
đựng và ít phản kháng đối với hệ thống cai trị. Mà nếu có một thiểu số người phản
kháng thì dễ dàng bị khép tội khi quân.
Rất ít người
dám đặt câu hỏi: Tại sao ông cứ làm vua hoài, ngồi trên ngai suốt đời, hết đời
ông lại đến đời con, đời cháu, rồi cả dòng họ nội ngoại của ông.
Luật pháp
phong kiến không cho phép người dân có quyền đặt câu hỏi đó. Nó như thể là sự sắp
xếp của tạo hóa, một quyền lực tuyệt đối được tiền định bởi thiên nhiên, thượng
đế, vì vua phải làm như thế, không thể làm khác hơn. Ai chất vất, ai muốn thay đổi,
ai tranh giành là mang tội chống báng, phản loạn, phải bị tù giam 20 năm, chung
thân, hay bị chém bay đầu.
Ghê thế đó!
Rùng rợn thế
đấy!
Bây giờ có
khác gì đâu.
Hai ngàn năm
trước đến nay vẫn vậy. Chỉ thay đổi danh xưng, thay đổi hình thức, còn bản chất
vẫn vậy. Xưa thì gọi hoàng đế, vua, nay thì có đệ nhất bí thơ, tổng chủ tịch. Xưa
thì có triều thần nay thì có đại ban chấp hành..v..v…Có thay đổi bình nhưng rượu
vẫn vậy. Rượu cay nồng, một loại chất men độc hại làm tiêu mòn, phá hoại sức sống
dân tộc chúng ta, kiềm hãm sự phát triển của toàn dân tộc.
Không ít người Việt thường nói Việt Nam ta có hơn
4.000 năm văn hiến, có văn minh, văn hóa.
Nhưng quyền lực chính trị Việt Nam, một cơ cấu
thượng tầng trong xã hội, có như vậy hay không?
Người Việt chúng ta không văn minh. Vì người đứng
đầu tổ chức…vẫn có cách hành xử như vua chúa, ôm đồm, tham lam, thâu tóm tất cả.
Sở dĩ phải nói người Việt chúng ta không văn minh là vì hầu như cả xã hội im lặng
trước đại vấn nạn, đại tệ nạn đó. Im lặng là đồng thuận hay đồng lõa??? Một thiểu
số có lý trí, có đạo đức, có lòng can đảm dấn thân, biết phân biệt đúng sai,
thiện ác. Thế nhưng đó chỉ là thiểu số. Liệu rằng thiểu số có làm nên tương lai
tương sáng cho dân tộc??? Chỉ có dân tộc chúng ta là người đưa ra câu trả lời.
Không ai làm thay cho chúng ta. Không ai thay đổi vận mệnh Việt Nam bằng
người Việt chúng ta.
Căn bịnh này hầu
như không thể cứu chữa được rồi, trừ khi người Việt can đảm, có lòng tự trọng, biết
xấu hổ trước sự yếu kém, nghèo khó của đất nước và dân tộc mình, biết cái ác là
xấu, và biết sống văn minh với đồng hương, đồng bào mình.
2/ Bịnh bất lương của những người ở vị trí thượng tầng quyền
lực
Bất
lương là không lương thiện, là gian dối với đồng hương, đồng bào, là ăn cắp của
công, ăn giựt tiền của đồng hương, là tham nhũng, là dùng thủ đoạn sát hại chiến
hữu mình, giết hại đồng bào mình. Những người làm chính trị bất lương là loại người
tìm cách đạt đến mục đích bằng bất cứ phương tiện, thường là vô đạo đức.
Một người bình thường khi sống bất lương sẽ bị
hàng xóm coi thường, bị xã hội chê bai, bị pháp luật trừng trị. Một người dân sống
bất lương là một người dân thiếu nhân cách.
Tuy nhiên những kẻ ở vị trí cao trong lĩnh vực
chính trị như cầm đầu tổ chức “đấu tranh”, đứng đầu nhà nước, chính quyền có thể
không bị pháp luật trừng trị do vì pháp luật được ban hành chỉ để bảo vệ kẻ cầm
quyền hay họ dùng quyền thế để chạy tội, dùng tiền ăn cướp được để làm lá chắn
che thân, để che lấp cái thói tính bất lương của họ.
Đây không những
là tệ trạng bất công trong cộng đồng, xã hội Việt Nam nhưng nó còn chứa đựng mầm mống
nguy hiểm. Bởi vì, một khi kẻ có quyền, có vị trí cao trong tổ chức chính trị
mà hành động bất lương và thoát lưới pháp luật thì họ sẽ tiếp tục gây tổn hại,
tiếp tục ăn cướp, tiếp tục giết người. Tất nhiên sự tác hại ở phạm vi rộng lớn
hơn vì được quyền lực và sức mạnh đồng tiền hỗ trợ.
Một điều xấu
hổ cho nền văn hóa Việt chúng ta là kẻ leo lên được vị trí thượng tầng trong lĩnh
vực chính trị lại không sống lương thiện, không bị pháp luật trừng trị, trái lại
họ lại nhân danh nền đạo đức, nhân danh nền văn minh “mới”, nhân danh sự tiến bộ
của một “xã hội mới”, nhân danh sự “canh cải” để dạy bảo đồng hương, để trừng
trị những người dân lương thiện, để cầm đầu “cách mạng”, để lãnh đạo quốc gia!!!
Một cộng đồng,
một xã hội có những người đứng đầu như thế tất nhiên không thể phát triển, nếu
không muốn nói nó còn sản sinh ra những thành phần bất lương khác vì họ thấy bất
lương là một cách sống, một cách làm giàu “chính đáng” do vì phần lớn xã hội,
phần lớn cộng đồng im lặng không muốn đụng chạm tới họ vì sẽ hại thân.
Không phải tất
cả người hoạt động chính trị đều xấu, tuy nhiên hiện nay chưa thấy người có đạo
đức xuất hiện, một là họ đã bị giam chung thân trong ngục tối, hai là họ đã bị
thanh trừng, ba là họ đang ẩn mặt vì không muốn sống chung với bọn cờ gian bạc
lận lấy môi trường chính trị làm nơi mua quan bán tước, vinh thân phì gia.
Người Việt chúng ta hãy quan sát sự phát triển
kinh tế và chính trị dân chủ, bình đẳng giữa các đảng phái của đất nước Thái
Lan và Nam Hàn, hai trong số các nước ở trong khu vực với Việt Nam thì chúng ta
phải hiểu được căn bịnh bất lương đã tàn phá sức sống của quốc gia, dân tộc
chúng ta như thế nào.
3/ Bịnh giả danh cách mạng
Cách
mạng theo nguyên nghĩa là thay đổi mệnh vua (vua do mệnh trời giao phó). Sau
này, cách mạng có nghĩa là thay chế độ cũ xấu, ác, lạc hậu bằng một chế độ mới
tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn, và có dân chủ, nhân quyền, tự do, văn minh, giàu mạnh.
Với ý nghĩa như thế, xét duyệt tình hình chính
trị Việt Nam
trong một thế kỷ nay, người Việt chúng ta chưa có một cuộc cách mạng thật sự để
dân ta có cuộc sống ấm no, phú cường và tự do.
Có tổ chức xưng là cách mạng “canh cải” nhưng
lại bảo thủ, không chịu đi theo cái tốt đẹp, không chịu hướng thiện, không chuộng
cái mới, không cầu tiến. Người cầm đầu thì ngoan cố không chịu nghe ý kiến cộng
đồng. Cộng đồng phê bình thì để ngoài tai, có khi lại mang tâm địa tiểu nhân, thù
ghét cá nhân nên cho đàn em chơi xấu như chọi đá cho bể kiếng xe, bể kiếng nhà,
hay xúm lại đánh hội đồng trên diễn đàn liên mạng hoặc chửi tục một cách thất học,
hoặc đưa ra lời đe dọa. Đảng chính trị mà có đàn em, đàn anh, tay sai nha trảo?
Cách làm này rõ ràng là của phường lưu manh, thế nhưng nó vẫn thịnh hành trong
một tổ chức chính trị xưng là cách mạng. Đảng chủ trương “canh cải” mà lại đi lường
gạt tiền đồng bào. Đồng bào cũng phải đi làm thuê, làm mướn hay làm công cho người
nước ngoài mới có tiền chứ đâu có ăn cướp của ai mà được tiền.
Thế mới thấy hành động của thành phần giả danh
cách mạng để lường gạt đồng hương. Họ coi cách mạng như một kiểu thời trang, thấy
những người nhờ làm cách mạng mà giàu có nên cũng bắt chước làm theo. Họ đã làm
sai ý nghĩa cách mạng, biến môi trường cách mạng thành một sòng bài ăn thua tiền
bạc hay một thị trường đầu tư kiếm lời. Không có lòng nhân và lòng ái quốc của
bọn con buôn cách mạng
Có
chính đảng cũng tự xưng là cách mạng nhưng khi lật đổ chế độ cũ rồi thì họ cũng
không có gì mới, lại còn tệ hại hơn, tham nhũng nhiều hơn, bất công nhiều hơn, chỉ
lo cho quyền lợi phe đảng, dân cũng nghèo hơn. Thêm nữa, đảng cách mạng nhưng
chỉ vay mượn chủ thuyết của ngoại bang chứ mình không lập thuyết được, đến độ
vay mượn cả từ ngữ được dịch từ các văn bản nước ngoài. Đây là thói tính dựa
vào người, đi xa hơn là trở thành nô lệ, của một số người Việt Nam. Điều này
chỉ ra cho thấy rằng người Việt chúng ta không có lối làm việc độc lập, tự tin ở
chính mình, trái lại mượn áo người khác mặc vào để làm oai với đồng bào trong nước.
Đây cũng chính là giả danh cách mạng.
Một người dân quê mù chữ nhưng luôn cố gắng
lao động trên đồng ruộng để kiếm miếng ăn cho bản thân và nuôi sống gia đình họ.
Đây là thái độ tự trọng đáng khen ngợi của một người dân nghèo, không lấy cắp của
ai, không luồn cúi đi xin xỏ, vay mượn của người khác. Họ đứng vững trên đôi
chân của mình.
Thế mà các bậc đại tiến sĩ, tổng giáo sư, phó
thạc sĩ hay các nhà cách mạng “canh cải”, các thượng giáo sư trong đại hội đồng
lý luận lại không có lòng tự trọng thì làm sao lãnh đạo được nhân dân, làm sao đưa
quốc gia đi lên và phát triển giàu mạnh.
Chứng bịnh
giả danh cách mạng cho chúng ta thấy người Việt mình thiếu tự trọng, không tự
chủ, nghèo nàn về tri thức nên mới đi học đòi, và mang bịnh lệ thuộc tư tưởng
người, u mê đến nổi cho cái của ngoại bang đó là “bách chiến bách thắng”. Nếu
chúng ta có vốn liếng tinh thần vững vàng, có tài sản tri thức thì đâu cần phải
vay mượn chủ thuyết. Trong kho tàng văn hóa dân tộc chúng ta có bao điều hay và
văn minh, sao chúng ta không tìm kiếm học hỏi? Căn bịnh này còn bộc lộ tư tưởng
vọng ngoại, mất tự tin, và hầu như cũng khó chữa trị.
Một đất
nước, một cộng đồng bị một số thành phần chỉ biết đi vay mượn ngoại bang và
không có sự tự trọng thì cộng đồng đó, đất nước đó chắc chắn luôn luôn thua kém
lân bang và dĩ nhiên không có tương lai.
4/ Bịnh
… (Còn
tiếp)
Phạm Hoàng Tùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét