Bạn có biết ông, bà tỉ phú nào nắm trong tay một tài sản lớn
và nhiều hơn tài sản dân tộc?
Bạn có biết ông, bà tỉ phú nào sau khi làm giàu cho cá nhân
và gia đình, họ có còn nghĩ ra và tìm cách thực hiện để giúp người dân trong xã
hội có cuộc sống sung túc??
Nếu mỗi người trong chúng ta biết sử dụng quyền làm chủ và
khai thác tài sản dân tộc để tạo điều kiện giúp đỡ từng gia đình người Việt có
cuộc sống đủ ăn, và rồi giàu có, cũng như giúp cho đất nước ta cường thịnh thì
chúng ta sẽ là vị tỉ phú đặc biệt đứng trên các tỉ phú!!
Nếu chúng ta cứ loay hoay với thái độ tự đắc trong cái ao tù
phe nhóm thì không những chúng ta không lớn được mà lại teo dần theo thời
gian!!!
Ngày 6/3/2014
Phạm Hoàng Tùng.
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Tuy Hòa cách Nha
Trang 120 km, và từ Sài Gòn đến Tuy Hòa độ 561 km, còn từ Hà Nội vào Tuy Hòa khoảng
1.156 km.
Bản đồ chỉ khoảng cách
từ Sài Gòn đến Phú Yên.
Ảnh nguồn: map
google.
|
Bản đồ tỉnh Phú Yên,
Trại Tù A.20
hay Trại Xuân Phước
thuộc huyện Đồng Xuân.
Ảnh nguồn: map Việt Nam google.
|
LỊCH SỬ TRẠI TÙ
Dưới đây
chúng tôi xin phép trích dẫn một số dữ kiện của những bạn tù thuộc thế hệ trước
chúng tôi để bạn đọc có cái nhìn tổng quát về vị trí, lịch sử trại tù A.20.
1.- Trại A-20 Xuân Phước được hình thành tháng 10
năm 1976 do đoàn tù Việt Nam Thương Tín xây cất.
2.-
Có 5 phân trại: A, B, C, D, E và trại Hốc Kè là trại kỷ luật của công an, và là
nơi tập trung các tù sắp được thả để bóc lột sức lao động lần chót.
3.-
Ngày 5/9/1979, 30 tù từ trại Z-30A Xuân Lộc chuyển đến phân trại E.
4.-
Năm ngày sau, thêm 78 tù từ Z-30D Hàm tân.
5.-
Vài ngày sau, thêm 118 tù từ trại Z-30C Hàm Tân.
6.-
Tháng 10 và tháng 11, thêm đợt tù từ trại Suối Máu.
7.-
Tổng số tù: trên 10.000, trong đó phân trại E có 700.
8.-
13/11/1980: 7 tù nhân cựu Sĩ Quan cướp súng, vượt trại, khoảng tuần lễ sau đó,
6 người bị bắn chết, một bị bắt sống, chịu án chung thân (Đại Uý Lê Thái Chân,
Pháo Binh Dù).
9.-
1982, đợt thả tù quy mô, đa số là tù nhân từ Suối Máu. Nhưng lại thêm tù nhân
chuyển từ trại Nam Hà về.
10.-
Giữa năm 1984: đa số tù từ Nam Hà được thả.
11.-
Cuối 1984, khoảng 100 tù nhân được chuyển về Z-30A Xuân Lộc.
12.-
Tháng 1-1985, thả một đợt trước Tết, trong đó có tác giả hồi ký này.
Chương 4
Trại Tù A-20, Xuân Phước
Trại A-20 được thế giới biết đến nhiều
như một trại giam man rợ nhất. Ngay cả trong danh sách những tù nhân mà các
chính phủ, hội đoàn đã và đang tranh đấu với Cộng Sản Việt Nam để được trả tự
do, trại A-20 vẫn chiếm hàng ưu tiên một. Trại A-20 từng giam giữ những chiến
sĩ Ðoàn Viết Hoạt, Phạm Trần Anh, các vị thượng tọa, đại đức, linh mục tranh
đấu cho nhân quyền như Thích Thiện Minh, Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Quang Minh.
Ðây là một trại tù trừng giới ở miền Nam
nơi giam giữ lâu dài những anh em quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa được chúng
liệt vào thành phần bất trị, các bạn chiến sĩ đấu tranh cho tự do dân chủ sau
ngày 30-4, và đám tù hình sự mang án chung thân hoặc tử hình.
Ðã đến đây thì chẳng ai nghĩ đến ngày về
nữa. Ngay cả trong giấc ngủ, cũng chẳng mơ được chuyện thoát ra khỏi trại. Muốn
biết thêm về trại A-20, quý vị có thể tìm đọc trong “Hồi Ký 26 Năm Lưu Đày”
của Thương Tọa Thích Thiện Minh, Chủ Tịch Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn
Giáo Việt Nam; “Trại Kiên Giam” của Nguyễn Chí Thiệp; “Đoạn Trường
Bất Khuất” của Phạm Trần Anh; và nhiều bài của Vũ Ánh đăng trên nhật báo
Người Việt hay nguyệt báo KBC Hải Ngoại.
Phần 1: Trong Lòng Thung Lũng Kỳ Lộ
Chúng
tôi từ các trại Z-30C, Z-30D (Hàm Tân) được chuyển ra đó cuối năm 1979. Từ ngã
ba Chí Thạnh, khoảng 40 cây số phía Bắc thị xã Tuy Hòa, đoàn xe rời quốc lộ 1,
rẽ về hướng tây, chạy trên một con lộ nhỏ đất đá lởm chởm xuyên qua những vùng
đất khô cằn, những xóm nhà tiêu điều đói khổ. Ði sâu vào lòng chảo vùng Kỳ lộ,
nơi những dãy núi tiếp nối nhau bao lấy một thung lũng nhỏ hẹp mà ngày xưa là
quận lỵ Ðồng Xuân thuộc tỉnh Tuy Hòa.
Trong những
năm chiến tranh, nơi đây là địa bàn du kích rất mạnh của giặc. Có thể nói gần
100 phần trăm dân số ở đây là thân cộng. Ðiều này chẳng lạ, vì trước đây, Xuân
Phước là căn cứ địa kháng chiến chống Pháp và sau 1954, qua hàng chục năm trời
xa cách ánh sáng văn minh tự do, người dân chỉ biết có Cộng Sản mà thôi. Họ gắn
bó với phong trào Cộng Sản vì gia đình nào cũng có người thân trong hàng ngũ du
kích. Xuân Phước, cũng như Củ Chi ở miền Nam là chỗ dựa vững chắc cho bọn du
kích, nơi cung cấp chỗ ẩn náu, tài lực, nhân lực cho Cộng Sản.
Việt
Nam Cộng Hòa chỉ bình định được vùng này từ khi có sự tăng viện của quân đội
Ðại Hàn, với lối chiến tranh cứng rắn và đôi khi tàn khốc mà quân ta không nỡ
thi hành đối với đồng bào mình (dù rằng đồng bào này cũng cầm súng cho kẻ
địch!)….
Trại có 5 phân trại, gọi tên theo vần
A, B, C, D, và E. Phân trại A dành cho tù Việt Nam Thương Tín, là những người
đã thoát khỏi Việt Nam những ngày cuối tháng tư 75 trên con tàu Việt Nam Thương
Tín. Họ đã chạy tới đảo Guam thuộc Mỹ, và
tranh đấu đòi trở về. Họ được bọn Việt Cộng tổ chức tiếp đón, ca ngợi rồi sau
đó, đưa tuốt vào trại tù sau khi đã tước đoạt toàn bộ tiền bạc, tư trang. Những
người tù VNTT tương đối ngoan ngoãn, nên được chúng cho nhiều đặc ân như đi lao
động tự giác, thì giờ ít gò bó, được thăm nuôi thường xuyên....
Phân
trại B, cách đó chừng 5 cây số, giam tù hình sự có trọng án (thường từ 20 năm
đến chung thân và tử hình). Bọn này thuộc loại giết người cướp của hiếp dâm.
Tại đây có một số cán bộ chiến sĩ VNCH, lãnh tụ tôn giáo biệt giam trong một
cấm thành nằm lọt giữa trại với những bức tường cao.
Phân trại C và D nằm xa hơn, nhốt tù
hình sự. Anh em chúng tôi được đưa vào phân trại E, gồm 3 dãy nhà gạch kiên cố,
có hàng rào kẽm gai cách biệt. Mỗi dãy dài khoảng 40 mét, chia làm hai căn cũng
ngăn bằng hàng rào kẽm gai cao quá đầu. Mỗi căn có hai tầng giuờng đúc xi măng,
chứa từ 100 đến 120 người, mỗi người chỉ được bề ngang chừng bốn tấc, không đủ
trải tấm chiếu. Chúng tôi phải nằm nghiêng hoặc xoay ngược đầu với bạn để có
thể tạm ngủ được qua đêm.
Dữ kiện được trích từ:
Cựu tù A.20 Đỗ Văn Phúc
Trại Giam A.20
còn được gọi là trại Kiên Giam, là Trại Trừng Giới...Trại A.20 dựng trong mật
khu Kỳ Lộ, có người gọi là thung lũng tử thần Kỳ Lộ.
Dữ kiện được trích từ cựu tù A.20 Tống Phước Hiến
langa20xuanphuoc.blogspot.com.
Các loại
trại có mã số A như A-20 (Xuân Phước), A-30 (Pleibong) và A-10 (Khe Sanh) được
thành lập để kiên giam một số tù cải tạo mà họ coi là nguy hiểm. Phương thức
lọc lựa những "khuôn mắt" tù này nằm trong Phương Án 4, một trong
những phương án đầy ải tù nhân chính trị cũng như các cựu sĩ quan quân đội,
viên chức và sĩ quan cảnh sát và đảng viên của các chính đảng ở Miền Nam Việt
Nam nhất là Việt Nam Quốc Dân Đảng mà cho rằng "không cải tạo được". ..
Đây không phải là kiểu trại như
Lý Bá Sơ hay Đầm Đùn thời Việt Minh mà mang hơi hướng của kiểu trại trừng giới
do Stalin lập ra ở Siberia. Anh em chúng ta
gọi A-20 là "trại trừng giới" cũng là xuất phát từ ý đồ của kiểu trại
này: kỷ luật thật khắt khe, lao động khổ sai nhưng thiếu ăn triền
miên, đau ốm không được cấp thuốc men và những kiểu hành hạ
về tinh thần như tạo ra những sự kiện để thúc đẩy tù cải tạo đấu tố nhau, bình
bầu mức ăn lấy của người này cho người kia, tạo ra bối cảnh chia rẽ nghi kỵ lẫn
nhau. Trừng giới chỉ có nghĩa là trừng phạt nghiêm khắc (punish strictly) mà
thôi.
Dữ kiện được trích từ cựu tù A.20
Vũ Ánh.
HÌNH ẢNH TỰ HỌA CỦA CỰU TÙ NHÂN A.20
Những tù nhân bị còng chân trong phòng biệt giam.
Ảnh nguồn: Cựu tù A.20
Đỗ Văn Phúc
|
Phòng kiên giam tù nhân cãi chống lịnh trại.
Ảnh nguồn: Cựu tù A.20
Đỗ Văn Phúc
|
Đứng ngó ra ngoài chấn song sắt nhà tù,
nghĩ về tương lai.
Ảnh nguồn: Cựu tù A.20
Đỗ Văn Phúc
|
Người tù ngồi cô đơn trong phòng biệt giam.
Ảnh nguồn: Cựu tù A.20
Đỗ Văn Phúc
http://www.michaelpdo.com/XuanPhuoc2.htm
|
Lò tự chế để nấu nước pha trà hay nấu cơm trong tù,
tìm một ít thanh thản trong cuộc sống khó nhọc.
Ảnh nguồn: Cựu tù A.20
Đỗ Văn Phúc
|
Trong buồng giam chật hẹp nhưng có quá nhiều tù nhân.
Ảnh nguồn: Cựu tù A.20
Đỗ Văn Phúc
|
NGƯỜI CỰU TÙ CHÍNH TRỊ
TỰ RÈN LUYỆN “SỨC KHỎE”
…Thế nào là người tù có phẩm
chất? Người tù có phẩm chất là người tù: một mặt tự mình duy trì tính bất
khuất, mặt khác khích lệ tất cả các bạn tù phải quyết tâm duy trì tính bất
khuất trước mọi hành hạ cũng như dụ dỗ của hàng ngũ công an. Tuy nhiên có những
người tù đã thể hiện được phẩm chất cao quí trong suốt thời gian bị giam cầm,
nhưng ngay sau khi ra khỏi cổng nhà tù, họ lại có những biến thái rất đáng quan
ngại:
- Biến Thái
I: Có những cựu tù nhân do những hành hạ thái quá trong trại tù, nay đã bị suy
nhược về tinh thần cũng như thể chất. Họ mang mặc cảm tự ty đối với những người
chung quanh về trình độ hiểu biết, trong nghiệp vụ chuyên môn, về sức khỏe cũng
như về nghị lực trong công việc. Ngoài những lo lắng cho đời sống bản thân và
đời sống gia đình, họ hầu như không muốn nghĩ đến điều được trang trọng gọi là
dòng tâm-sinh-mệnh dân tộc.
- Biến Thái
II: Có những cựu tù nhân tự cho rằng những gì họ học hỏi trong tù và nhất là
những gì họ đã phải chịu đựng trong tù là tuyệt đối hoàn hảo, tuyệt đối khả
kính. Kể từ sau lúc họ ra khỏi nhà tù, mọi người chung quanh có nghĩa vụ phải
kính trọng họ vô điều kiện.
Trong tất cả những buổi hội họp bàn
chuyện phục vụ quê hương dân tộc, nếu có chiếu ngồi thì chiếc chiếu dành cho họ
phải là chiếc chiếu duy nhất thượng hạng trong các loại “chiếu trên”. Từ trên
chiếc chiếu duy nhất thượng hạng đó, họ nhìn những người chung quanh bằng đôi
mắt trịch thượng của đấng lãnh chúa nhìn thuộc viên của ông ta. Quan sát thái
độ của những cựu tù thuộc nhóm Biến Thái II, nhiều người liên tưởng đến tài
phiệt.
Những kẻ dựa vào thành tích tài chánh
của họ để lấn át người khác gọi là tài phiệt. Những kẻ dựa vào thành tích ở tù
để xem những người chung quanh như thuộc viên, có lẽ đáng được gọi là “tù
phiệt”. Cuộc gặp gỡ giữa các “tù phiệt” chẳng khác nào cuộc gặp gỡ giữa các
quân nhân vô kỷ luật. Quân nhân vô kỷ luật sẽ sản sinh ra nạn “kiêu binh”. Tù
phiệt sẽ sản sinh ra “kiêu tù”.
- Biến Thái
III: Có những cựu tù nhân đã biến những kỷ niệm tệ hại trong tù thành lòng thù
hận cứng rắn đối với Cộng Sản Việt Nam. Ðành rằng nguồn gốc của lòng
thù hận này là hữu lý, thế nhưng mỗi khi bàn thảo về tương lai Dân Tộc, mọi
người phải để lòng thù hận bên ngoài phòng họp.
Chúng ta
chống Cộng sản vì Cộng sản gây tác hại đối với dòng sống Dân Tộc chứ không vì
lòng thù hận phát xuất từ trại tù. Thái độ chính trị thích nghi và chừng mực
không bao giờ được hướng dẫn bởi lòng thù hận. Hơn thế nữa, lòng thù hận rất
nhiều khi đã đẩy người thù hận rơi vào tình trạng cực kỳ nghịch lý: họ chống
Cộng sản cứng rắn đến độ họ đòi hỏi mọi người phải chống cộng theo đúng cung
cách của họ.
Người nào
chống cộng theo một cung cách mà họ cho là “khác lạ”, lập tức người này sẽ bị
chụp mũ là tay sai của Cộng sản, là “trở cờ”. Người ta bảo “trời xanh có mắt”,
nhưng trong thực tế tôi thấy “quần chúng có mắt”. Chính nhờ “có mắt” cho nên
quần chúng chẳng bao giờ quan tâm tới ý kiến của những người thường xuyên chống
cộng với thái độ hận thù ngun ngút. Hận thù càng cao càng xa rời quần chúng và
càng lạc hướng đấu tranh….
Trong hoàn cảnh chính trị rối ren như đã sơ
phác, tập thể Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam không thể đóng vai khách qua
đường. Tuy nhiên muốn làm một điều gì đó cho quê hương, trước tiên mỗi người
cựu tù chính trị phải quay về với chính mình để triệt để gột rửa các Biến Thái
Tâm Lý nói trên, nếu có. Chỉ có quay về với chính mình như vừa nêu, người cựu
tù chính trị mới nhận biết: Tù Chính Trị, Anh Là Ai ?
- Anh là Người đã cống hiến cho quê hương một
phần lớn mồ hôi, máu và nước mắt trong lao tù.
- Anh là Người sau khi ra khỏi nhà tù vẫn tiếp
tục duy trì một tâm lý vững vàng: không tự ty yếm thế; không tù phiệt, kiêu tù;
không phục vụ quê hương do lòng thù hận, mà do tim óc trong sáng của một chiến
sĩ cách mạng.
- Anh là
Người quyết tâm tiếp tục phục vụ Dân Tộc như Anh đã và đang phục vụ. Trên bước
đường phục vụ Dân Tộc trong những ngày tới, Anh thừa biết: mọi việc làm sẽ là
Dã Tràng xe cát nếu chúng ta không hiểu được qui luật Ðoàn Kết Dân Tộc, không
thấy được mối tương quan biện chứng giữa Dân Tộc Tính và Nhân Loại Toàn Tính,
và không hình dung được cũng như không thể khai thác được cuộc khủng hoảng tư
tưởng vô tiền khoáng hậu của các quốc gia Cộng Sản hiện nay.
Tù chính trị,
Anh là ai? Bây giờ, Anh đã biết rồi. Kính mời Anh lên đường.
Dữ kiện được trích từ:
TÙ CHÍNH TRỊ, ANH LÀ AI?
TÙ CHÍNH TRỊ, ANH LÀ AI?
MÔI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ KHÔNG DUNG THỨ
Chính
trị là một lĩnh vực liên can đến cá nhân, tập thể, xã hội. Tổng quát, chính trị
có mục đích nhắm đến con người, khoan nói đến mục đích tốt hay xấu.
Con người là phần tử phức tạp, người xưa có
câu để lại: Dò sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người. Đúc kết những
bài học của cổ nhân và ngày nay cho chúng ta thấy, con người được coi là một vũ
trụ thu nhỏ, thế cho nên, muốn tìm hiểu và chinh phục là một việc làm không đơn
giản.
Chính trị học được dạy tại các đại học trên
thế giới, từ quốc gia tiên tiến dân chủ đến các chế độ độc tài nghèo nàn. Môn học
này trong trường đại học được đúc kết từ thực tế, người giảng dạy có thể có nhiều
kiến thức từ sách vở, hay các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực thực tế,
còn người học phần đông là giới trẻ chưa có kinh nghiệm đời.
Trong các chế độ dân chủ, người hoạt động
chính trị hiếm khi bị cầm tù, ngoại trừ mang tội hình sự như giết người, hãm hại
gái tơ, lường lận lấy tiền người khác…chứ họ không bị bỏ tù vì quan điểm chính
trị khác với chính quyền.
Trong hệ thống chính trị theo khuôn mẫu Liên
Sô, đảng độc quyền của giai cấp công nhân!!!, thì nhà tù Gulag là nơi dành để
giam giữ những ai có quan điểm chính trị khác nhà cầm quyền. Phần lớn là giam họ
cả đời để tiêu diệt sự khác biệt về chính trị. Chính trị trong môi trường như
thế này mang bản chất không dung thứ, tận diệt người khác để mình tồn tại, tước
bỏ quyền tự do của người khác để mình tự do thụ hưởng tất cả của cải trong xã hội.
Trại Cải Tạo Phạm Nhân Xuân Phước (Phú Yên
1975 -1995) cũng như nhiều trại cải tạo khác đi theo khuôn mẫu Gulag.
Có thể coi đây là một môi trường dành cho người
hoạt động chính trị rèn luyện bản thân họ, tất nhiên phải khắc nghiệt hơn môi
trường thanh bình ở các trường đại học, bởi vì đôi khi họ phải trả giá bằng mạng
sống, còn chuyện tù đày cả đời, mất tự do cả đời thì không ít.
Sử dụng sức tù nhân như trâu bò.
Gulag Liên Sô, trích từ hồi ký của Jacques Rossi.
Ảnh nguồn:hồi ký Jacques Rossi.
|
Dưới đây mời các bạn đọc blog theo dõi dữ kiện từ hồ sơ
Gulag Liên Sô do chúng tôi biên soạn:
Mức sống
và điều kiện làm việc trong các trại tù Cộng Sản Liên Bang Sô Viết
tùy thuộc vào nhiều yếu tố, do tác động của những biến cố lớn bên
ngoài như Đệ Nhị Thế Chiến, nạn đói hay thiếu hụt lương thực khắp Liên
Bang Xã Hội Chủ Nghĩa, làn sóng khủng bố, sự gia tăng thình lình số
lượng tù nhân hoặc sự phóng thích số lượng lớn tù
nhân.
Tuy nhiên đại đa số tù nhân
trong hầu hết thời gian ở tù phải đối diện với phần thực phẩm được
nhà tù cung cấp thấp kém, quần áo tù không đầy đủ trong một lãnh
thổ như Liên Sô luôn phải đương đầu với cái lạnh khắc nghiệt, số
lượng tù nhân bị nhốt chung quá đông, nhà giam tù nhân lại xây dựng
thiếu tiêu chuẩn, điều kiện vệ sinh tồi tàn, việc chăm sóc sức khỏe
thiếu thốn nếu không nói là làm cho có lệ mà thôi.
Đại đa số tù nhân bị cưỡng bức
lao động bằng tay chân rất nặng nhọc. Mức độ cơ giới hóa công việc lao
động trong trại tù rất thấp so với công nghiệp dân sự, dụng cụ lao
động thô sơ, máy móc nếu có thì ít khi được cung cấp. Giờ lao động
chính thức thường dài hơn và ngày nghỉ ít hơn so với công nhân dân sự
ngoài xã hội. Đôi khi các qui định làm việc chính thức bị các cơ
quan quản lý trại giam địa phương mở rộng thêm.
Tổng quát các cơ quan quản trị trung ương chứng tỏ sự quan tâm có thể
thấy được trong duy trì nhân lực lao động của trại tù cải tạo ở một
điều kiện cho phép hoàn thành các kế hoạch sản xuất và xây dựng do
cấp trên chuyển giao. Bên cạnh phơi bày rộng rãi những cuộc trừng
phạt đối với tù nhân nào không chịu làm việc (thực tế, sự trừng
phạt chỉ áp dụng cho các tù nhân quá yếu để hoàn thành các định mức
lao động), nhà tù còn đề ra một số phần thưởng tích cực nhằm thúc
đẩy năng suất lao động tù nhân.
Phần thưởng này bao gồm tiền (từ đầu thập niên 1930) và trả lương
(từ 1950 trở đi), việc giảm án tù trên căn bản từng cá nhân, các kế
hoạch phóng thích tù nhân hoàn thành hay vượt định mức lao động (tới
năm 1939 mới có, sau này một lần nữa trong các trại được lựa chọn
từ năm 1946 trở đi), sự đối xử ưu tiên và có đặc quyền dành cho
những “lao động tiên tiến”.
Một kế hoạch phần thưởng
phân biệt có cả yếu tố cưỡng ép và thúc đẩy được áp dụng chung cho
tất cả trại tù gồm mức dinh dưỡng được tiêu chuẩn hóa, điều này có
nghĩa là số lượng thực phẩm cấp phát cho người tù ăn tùy thuộc vào
phần trăm số lượng công việc được giao.
Naftaly Frenkel được tin là người giới
thiệu chính sách “dinh dưỡng” nói trên. Một mặt, nó có hiệu quả
trong việc thúc ép nhiều tù nhân làm việc nghiêm chỉnh, tuy nhiên đối
với nhiều người lại có hiệu quả ngược lại, làm họ mau kiệt sức,
đôi khi gây cho tù nhân bị chết vì không thể hoàn thành định mức lao
động sản xuất quá cao.
Naftaliy Frenkel hay
Naftaly Aronovich Frenkel (1883–1960), công dân Sô Viết, nhân viên cơ quan
cảnh sát mật Cheka. Frenkel nổi tiếng vì vai trò tổ chức công việc
trong hệ thống trại Gulag, bắt đầu từ trại cưỡng bức lao động trên
đảo Solovetsky, khu vực này được coi là nơi có trại Gulag đầu tiên của
Liên Sô.
Naftaly Frenkel.
Ảnh nguồn wiki.
|
Năm
1927, Naftaly Frenkel bị bắt giữ và gửi tới trại Solovetsky (Solovki).
Nơi đây, Naftaly Frenkel nhanh chóng nổi lên từ thân phận tù nhân tới
nhân viên ban quản trị trại tù do sức mạnh của đề nghị do ông ta trình
lên như sau: Ban giám thị trại nên bó buộc tỷ lệ phần ăn của tù nhân
với năng suất lao động của họ. Đề nghị này được biết là”Cân Dinh
Dưỡng”.
Ý
kiến của Naftaly Frenkel về sự khai thác hiệu quả sức lao động của
tù nhân khiến cho ông mau bước vào vị trí cao của đẳng cấp Cộng Sản
Sô Viết. Naftaly Frenkel được phóng thích khỏi nhà tù, dần dần được
đề bạt lên chức vụ Tổng Giám Đốc Dịch Vụ Kỹ Thuật Và Công Trình.
Sau cuộc họp mặt cá nhân với Stalin, Naftaly Frenkel được bổ
nhiệm làm nhân vật đứng đầu công trình xây dựng Kinh Baltic-Biển
Trắng, một kế hoạch cưỡng bức lao động tù nhân. Naftaly Frenkel sau
này cũng hướng dẫn công trình xây dựng Đường Xe Lửa Baikal Amur
Mainline tùy thuộc nặng nề vào nhân lực Gulag.
Trong suốt thời gian 1937-1945, Naftaly Frenkel là Tổng Giám Đốc Xây
Dựng Đường Xe Lửa. Vì những đóng góp cho chế độ, Naftaly Frenkel được
tưởng thưởng “Huân Chương Lenin” ba lần và danh hiệu ”Anh Hùng Lao Động
Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Ý
tưởng và cách thức tổ chức trại tù bằng cách siết chặt bao tử tù
nhân của Naftaly Frenkel đã nhanh chóng được thực hiện trong chế độ tù
giam, trại “cải tạo tư tưởng con người” (tẩy não /brainwash) bằng
cưỡng bức lao động của chế độ Sô Viết, đặc biệt dưới thời
Stalin.
Ý tưởng và cách tổ chức này
đã ảnh hưởng nặng nề tới chế độ tù giam của những nhà nước Cộng
Sản chư hầu...(hết).
Học chính trị trong môi trường đại học thanh bình, ổn định là điều kiện lý tưởng cho những người trẻ tuổi có đam mê trong lĩnh vực phức tạp này. Tuy nhiên cần có thời gian trui rèn trong thực tế mới lượng định được kiến thức mình học tại nhà trường có phù hợp với tình hình chính trị trong đời sống xã hội.
Trong những quốc gia không dân chủ, thì những
người hoạt động chính trị được rèn luyện ngay trong thực tế. Họ dấn thân hoạt
động vì lý tưởng và phải đương đầu với hiểm nguy của môi trường chính trị không
dung thứ. Trong môi trường này, không có bài bản lý thuyết hay nguyên tắc hoặc
sự lượng định khả năng cá nhân bằng các học vị, thay vào đó là bản lĩnh đối phó
để tồn tại và tìm cách đạt được mục tiêu.
Chính trị từ
nguyên nghĩa đã nói lên sự chính đáng của kẻ cai trị. Từ “chính” đối lập dứt
khoát với từ ngữ gian tà hay ma đầu, thủ đoạn xảo trá, ác tâm hay sát nhân hoặc
thảm sát để đạt tới mục đích chính trị.
Nhìn lại lịch
sử Việt Nam chúng ta từ năm 1945 tới nay, kể cả hai phe, kể cả mọi màu sắc
chính trị, kể cả trong và ngoài nước, ai can đảm tự nhận tổ chức mình, đảng
mình, cá nhân lãnh tụ nào làm đúng với chữ chính trong chính trị?
Có những người
làm chính trị vì lý tưởng cao đẹp để phụng sự quốc gia dân tộc, vì lợi ích và
danh dự dân tộc, nhưng chỉ là thiểu số hiếm hoi như ngọc quý trong cái đầm lầy sình
bùn. Phần còn lại, họ đã làm sai nghĩa, thậm chí còn biến chính trị thành một đấu
trường hung hiểm, nơi để giành giựt quyền lực, giành giựt địa vị, nôm na hơn là
giành nhau để cướp tiền của quốc gia, đây chính là bọn ma đầu chính trị chỉ biết
có tiền và tham vọng quyền lực.
Khi gian tà thắng
thế, và người có hoài bảo cao thượng trở thành kẻ thua cuộc, trở thành mẫu người
lỗi thời, thì lĩnh vực chính trị là đất dụng võ, là nơi hoành hành của bọn bất
lương ngụy trang dưới những bộ mặt cách mạng, canh cải.
MỤC TIÊU XÂY DỰNG TỰ
DO DÂN CHỦ (còn tiếp)
Phạm Hoàng Tùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét