ĐẾ QUỐC CỘNG SẢN VĨ
ĐẠI - KHẮC NGHIỆT
SUY KIỆT SỤP ĐỔ TAN RÃ
VÌ LÒNG DÂN KHÔNG THEO
Cách đây hai ngàn năm, đế quốc
La Mã hùng mạnh nhất thế giới đã thống trị nhiều dân tộc yếu kém hơn trong suốt
400 năm sau Tây Lịch, sau đó còn kéo dài ở phía Ðông (đế quốc Ðông La Mã) cho đến năm 1453. Thời
kỳ nhân loại chưa có ý thức nhân quyền rõ rệt, và ý thức tự do, dân chủ chưa
phát triển nên đế quốc La Mã đã dùng bạo lực ngự trị xa xỉ, kiêu căng trên cuộc
sống lầm than, khổ sở của nhiều dân tộc khác.
Vào đầu thế
kỷ 20 khi Lenin cho thành lập đế quốc Cộng Sản Liên Sô, so với nhân lực, cơ cấu tổ chức, và vũ khí
thời La Mã thì đế quốc Cộng Sản Liên Sô hùng mạnh hơn với các trang bị quân sự
hiện đại có tầm sát thương - tàn phá -
hủy diệt hàng loạt. Ngoài vũ khí hiện đại, tân đế quốc này còn được hỗ
trợ bởi một “học thuyết” khá hoàn bị về mặt lý thuyết, dù vòng vèo-mâu
thuẫn-tối nghĩa về nội dung, ngay từ lúc khởi đầu dựng đế quốc.
Tuy nhiên đế
quốc toàn-kiểm lạc hậu - đen tối - bạo trị do Lenin lập nên không kéo dài đến
100 năm.
Sở dĩ ngày
nay, các đế quốc, thực dân không thể kéo dài bạo lực thống
trị và sớm tan
rã - tuyệt diệt là vì nhân loại đã trưởng thành, tinh thần phản kháng
mạnh dạn hơn khi trực
diện với hệ thống chính trị chuyên chế, độc tài, đàn áp; và lòng khát
khao tự do, dân chủ mãnh liệt nhiều hơn.
Sự giải thể, tan rã,
diệt vong của đế quốc Cộng Sản Liên Sô là khải hoàn ca trường cửu cho nền văn
minh nhân loại!!!
A/ DIỄN BIẾN CƠN ÐẠI
ÐỊA CHẤN CHÍNH TRỊ TỪ PHÍA CHUYÊN CHẾ LẠC HẬU LÀM HƯNG PHẤN NHÂN LOẠI QUAN TÂM
ÐẾN NHÂN QUYỀN
I/ TÌNH HÌNH CHUNG
Gorbachev
năm 1987.
Ảnh nguồn:wiki.
Hậu quả sụp đổ Liên Bang
Sô Viết và thành lập các quốc gia độc lập đã có dấu hiệu từ đầu năm 1985. Sau
nhiều năm đeo đuổi xây dựng sức mạnh quân sự với chi phí quá tốn kém khiến ảnh
hưởng đến chương trình phát triển quốc nội, và kinh tế đình trệ.
Các nỗ lực
cải cách thất bại, chiến tranh ở Afghanistan kéo dài, hao tốn, mất chính nghĩa dẫn tới nỗi
bất mãn trong toàn xã hội, đặc biệt tại ba nước Baltic và Ðông
Âu.
Sự tự do xã
hội và chính trị lớn hơn được lãnh đạo Sô Viết Mikhail
Gorbachev đề ra đã tạo nên bầu không khí chỉ trích công khai chế độ Moscow . Việc giảm giá dầu
gây nhiều chú ý trong năm 1985 và 1986, việc thiếu dự trữ ngoại tệ trong những
năm sau đó để mua ngũ cốc làm ảnh hưởng sâu sắc đến hành động của giới lãnh đạo
Sô Viết.
Vài nước
Cộng Hòa XHCN Sô Viết bắt đầu kháng cự lại hệ thống kiểm soát từ trung ương, và
dân chủ hóa nhiều hơn dẫn đến suy yếu chính quyền trung ương. Thâm thủng cán
cân thương mãi Liên Sô khiến cho kéo dài tình trạng khô cạn ngân khố nhà nước,
sau cùng đưa đến phá sản. Liên Bang Sô Viết sụp đổ năm 1991 vào lúc Boris Yeltsin
chiếm được quyền lực, sau khi xảy ra một cuộc đảo chính thất bại nhằm lật đổ
Gorbarchev có đầu óc cải cách.
II/ GORBACHEV NẮM QUYỀN
Mặc dù cải
cách ở Liên Sô ngày càng trở nên mạnh hơn giữa các năm 1969 và 1987, việc thay
đổi thế hệ cầm đầu tạo ra một xung lực mới cho cải tổ. Chiến tranh ở
Afghanistan thường được coi “Chiến Tranh Việt Nam” của Liên Sô, dẫn đến nỗi bất
bình trong công chúng đối với chế độ Moscow. Cũng vậy, tai họa nguyên tử Chernobyl {1}trong năm 1986 tạo thêm tốc độ cho cải tổ glasnost
và perestroika
của Gorbachev, sau cùng đi ra ngoài tầm kiểm soát gây cho hệ thống Liên Sô sụp
đổ.
1/ Glasnost: Là sự công khai tối đa, cởi mở, và minh bạch
trong hoạt động của tất cả định chế chính quyền Liên Bang Sô Viết, cùng với tự
do thông tin, được Mikhail Gorbachev chủ trương thực hiện vào nửa
sau thập niên 1980.
Từ ngữ này
được chuyển dịch từ chữ Nga: Гласность,
và thường xuyên được Gorbachev sử dụng để chỉ rõ các chính sách ông tin có thể giảm
bớt tham nhũng, hư hỏng, đồi bại trên thượng tầng Ðảng Cộng Sản Liên Sô và
chính quyền Sô Viết, và điều tiết việc lạm dụng quyền cai trị trong Ủy Ban
Trung Ương.
Lyudmila Alexeyeva, người bất đồng chính kiến
vừa là nhà hoạt động nhân quyền Nga giải thích glasnost: “Đã có trong ngôn ngữ
Nga từ nhiều thế kỷ. Danh từ này cũng đã được sử dụng trong tự điển và sách về
luật pháp. Ðây là từ ngữ thường chỉ đến một tiến trình, bất cứ tiến trình công
lý của nền cai trị được hướng dẫn công khai”.
Glasnost
cũng có thể chỉ đến thời kỳ đặc biệt trong lịch sử Liên Sô trong suốt thập niên
1980 khi có ít kiểm duyệt và tự do thông tin nhiều hơn.
Con tem
bưu phí Sô Viết
năm 1988:
Perestroika tiếp tục sự nghiệp Cách Mạng Tháng
Mười
(giòng chữ bên trái);
Tăng Tốc, Dân Chủ Hóa,
Glasnost (giòng chữ phải).
Ảnh nguồn:
wiki.
2/ Perestroika: Chữ Nga là Перестройка, bây giờ được sử dụng trong Anh
Ngữ để nói đến cải cách kinh tế và chính trị được lãnh đạo Sô Viết Mikhail
Gorbachev giới thiệu vào tháng 6/1987. Nghĩa đen của perestroika
là “tái cấu trúc” để chỉ sự tái cấu trúc nền kinh tế Sô Viết. Perestroika
thường được lập luận như một nguyên nhân làm sụp đổ lực lượng chính trị Cộng
Sản ở Liên Sô và Ðông Âu, và cũng làm kết thúc Chiến Tranh Lạnh.
Trong tháng
Giêng năm 1987, Gorbachev kêu gọi từ trong đảng đến nhân dân nên thực hiện dân
chủ hóa. Theo ông, dân chủ hóa có nghĩa là giới thiệu thêm nhiều ứng viên (chứ
không phải đa đảng) trong các cuộc bầu cử Sô Viết (ủy ban nhân dân) và đảng bộ
địa phương. Trong đường hướng này, Gorbachev hy vọng làm trẻ lại sinh lực đảng
với các nhân sự tiến bộ, những người có thể thi hành chính sách cải cách do ông
đề ra.
Một chống
đối chính yếu xảy ra khi Gorbachev tìm cách hủy bỏ Ðiều 6 Hiến Pháp Liên Sô,
trong đó diễn tả ưu thế của Ðảng Cộng Sản trên tất cả định chế xã hội. Ðối diện
với sức ép đòi không được hủy bỏ Ðiều 6, Gorbachev cần đồng minh chống lại
những người chủ trương bảo thủ trong đảng, sau cùng Gorbachev đạt được sự hủy
bỏ Ðiều 6 tại phiên họp toàn thể Ủy Ban Trung Ương Ðảng tháng 2/1990.
Tranh tuyên truyền cho Perestroika
với
hình Mikhail Gorbachev.
Ảnh
nguồn: wiki.
3/ Thay Ðổi Thế Hệ Lãnh Ðạo
Sau nhiều
năm đình trệ, “tư duy mới” của thành phần apparatchiks
Cộng Sản trẻ hơn bắt đầu nổi dậy. Theo sau cái chết của Konstantin Chernenko vì già yếu, Bộ Chính
Trị bầu Mikhail Gorbachev vào vị trí Tổng Bí Thư Liên
Sô tháng 3/1985 đánh dấu thời kỳ nổi dậy của thế hệ lãnh đạo mới.
Dưới thời
Gorbachev, các nhà kỹ trị (giới lãnh đạo chính trị xuất thân từ ngành kỹ thuật)
có khuynh hướng cải tổ, và tương đối trẻ, những người khởi đầu nghề nghiệp
trong giai đoạn cực thịnh của chủ trương phế bỏ Chủ Nghĩa Stalin của Nikita
Khrushchev (1953-1964), nhanh chóng cũng cố quyền lực trong Ðảng
Cộng Sản Liên Sô, cung cấp xung lực mới cho việc tự do hóa kinh tế và chính
trị, và tốc độ vun đắp mối quan hệ, thương mãi nồng ấm với Phương Tây.
Apparatchik, từ ngữ thông thường
trong xã hội Nga chỉ đến một quan chức chuyên nghiệp, toàn thời của Ðảng Cộng
Sản hay chính quyền Sô Viết. Ðây thường là từ ngữ chỉ trích.
Các thành
viên đảng bộ hay apparatchik
thường được thuyên chuyển giữa các vùng trách nhiệm khác nhau và lại không có
hay ít được huấn luyện thật sự cho lĩnh vực trách nhiệm mới của họ.
4/ Ðối Ngoại
Tổng Thống Hoa Kỳ Jimmy Carter
(sinh ngày 1/10/1924, Tổng Thống thứ 39 của Hoa Kỳ từ 1977 đến 1981)
chính thức kết thúc chính sách dịu bớt căng thẳng bằng cách trợ giúp quân sự
cho Tổng Thống Pakistan Muhammad Zia-ul-Haq (1924 –1988, cũng là nhà
lãnh đạo quân sự Pakistan{2}từ tháng 7/1977 tới
khi ông chết vào tháng 8/1988).
Muhammad
Zia-ul-Haq lại tài trợ cho Phong Trào Mujahideen{3}chống ảnh hưởng Liên Sô ở Afganistan, đây được coi
là cái cớ khiến cho Liên Sô xâm lược Afghanistan 6 tháng sau đó, với mục đích
ủng hộ chính quyền Afghanistan do Ðảng Dân Chủ Nhân Dân kiểm soát.
Căng thẳng
giữa hai siêu cường gia tăng trong suốt thời gian này, khi Carter cho lịnh cấm
vận thương mãi đối với Liên Sô và nói chiến tranh xâm lược của Liên Sô vào Afghanistan là “một
đe dọa nghiêm trọng nhất đối với hòa bình từ sau Ðê Nhị Thế Chiến”.
Căng thẳng
Ðông – Tây gia tăng trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng Thổng Mỹ Ronald Reagan
(Ronald Wilson
Reagan, 1911 – 2004, Tổng Thống thứ 40 của Hoa Kỳ (1981–1989), đạt đến mức độ chưa từng thấy từ Cuộc Khủng Hoảng Hỏa Tiễn Cuba năm 1962
khi ông Reagan gia tăng chi phí quân sự của Mỹ lên đến 7% của GDP (Gross Domestic
Product/tổng sản phẩm xã hội hay tổng sản phẩm quốc dân làm ra được của một
quốc gia).
Ðể đối đầu
với việc gia tăng xây dựng quân sự của Mỹ, Liên Sô tăng chi phí quân sự lên đến
27% của GDP và đóng băng sản xuất hàng dân sự ở mức năm 1980.
Reagan cung
cấp thêm cho các chiến sĩ Afghanistan loại hỏa tiễn Stinger khiến cho tốn kém
chi phí đến một tỷ Mỹ Kim hàng năm, trong khi đó Liên Sô hao tốn tới 8 tỷ Mỹ
Kim hàng năm cho quân sự.
Sau cùng,
ông Reagan cũng ngăn cản tích cực khả năng Sô Viết bán khí đốt cho Châu Âu đồng
thời làm việc tích cực để giữ giá khí đốt thấp nhằm làm cho giá dầu Liên Sô bị
thấp như thế gây cho họ thiếu hụt thêm ngoại tệ.
“Chiến lược
tấn công” lâu dài này “mâu thuẫn với phòng thủ và phản ứng một cách chủ yếu của
chiến lược ngăn chận” gia tốc sự sụp đổ của Liên Sô bằng việc thúc đẩy chi phí
quá mức so với nền tảng kinh tế yếu kém của thể chế Cộng Sản này.
Vào lúc
Gorbachev đang dẫn đầu trong diễn trình dẫn đến tháo bỏ nền kinh tế chỉ huy
cứng rắn của Liên Sô xuyên qua các chương trình như glasnost
(cởi mở chính trị), uskoreniye
(gia tốc phát triển kinh tế), và perestroika
(tái cấu trúc kinh tế và chính trị) được thông báo năm 1986, thì kinh tế Sô
Viết chịu đựng cả về lạm phát tiềm ẩn và thiếu hụt cung ứng tràn lan bị thiệt
hại bởi thị trường chợ đen đã phá hủy nền kinh tế chính thức.
Ngoài ra,
những tốn kém hoang phí vô độ trong cương vị siêu cường - quân sự, chương trình
không gian, trợ giúp cho các quốc gia bồi thần - nằm bên ngoài qui mô nền kinh
tế Sô Viết. Làn sóng mới của kỹ nghệ hóa dựa trên kỹ thuật thông tin để lại cho
Sô Viết vô vọng khi so với kỹ thuật Phương Tây và uy tín về chất lượng hàng
hóa, khiến họ ở trong tình trạng tiếp tục thua kém các định chế dân chủ tự do ở
Phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ.
Hỏa
tiễn Stinger hay FIM-92 Stinger
là loại hỏa tiễn đất đối không tự tìm mục tiêu
bằng tia hồng ngoại, mang xách bằng tay tiện lợi,
được phát triển tại Hoa Kỳ
và đưa vào sử dụng từ năm 1981.
Ngoài quân đội Hoa Kỳ,
Stinger đã được 29 quốc gia khác sử dụng.
Theo thống kê Stinger đã bắn hạ
270 máy bay.
Trong hình, FIM-92 Stinger đang được binh sĩ Mỹ
thực tập trên lãnh thổ của mình.
Ảnh nguồn: wiki.
III/ CẢI TỔ
Suốt thời kỳ
đầu tiên (1985-1987) trong thời gian nắm quyền của Gorbachev, ông nói về sửa
đổi kế hoạch tập trung, nhưng không thực hiện bất kỳ thay đổi căn bản thật sự
nào. Kế đến Gorbachev và toán cố vấn kinh tế giới thiệu thêm các cải tổ căn bản
hơn được biết là perestroika.
Tại khóa họp
toàn thể Ủy Ban Trung Ương Ðảng Cộng Sản Liên Sô tháng 6/1987, Gorbachev trình
bày các căn bản này của ông đặt nền tảng chính trị cho cải tổ kinh tế trong
giai đoạn còn lại của sự hiện hữu Liên Sô.
Vào tháng
7/1987, Sô Viết Tối Cao Liên Sô thông qua Luật Về Doanh Nghiệp Nhà Nước. Luật
qui định doanh nghiệp nhà nước tự do xác định mức độ sản lượng dựa trên nhu cầu
khách hàng và các đối tác kinh doanh khác. Các doanh nghiệp phải hoàn thành
lịnh nhà nước nhưng có thể loại bỏ chỉ tiêu sản lượng còn lại khi thấy thích
hợp. Các doanh nghiệp mua nguyên liệu từ người cung cấp với giá hợp đồng được
thương lượng. Theo luật này, doanh nghiệp trở nên tự lực về tài chính, đó là
phải đứng ra lo chi phí sản xuất (lương, thuế, cung cấp, và dịch vụ nợ) thông
qua lợi nhuận của cơ sở họ quản trị.
Chính quyền
không còn cứu giúp những cơ sở kinh tế quốc doanh thua lỗ đối diện với tình
trạng phá sản. Sau cùng luật thay đổi quyền kiểm soát trên các hoạt động doanh
nghiệp từ các bộ đến tập thể công nhân được bầu chọn. Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước
(Gosplan)
có trách nhiệm cung cấp hướng dẫn tổng quát và những ưu tiên đầu tư của quốc
gia chứ không soạn thảo chi tiết các kế hoạch sản xuất.
Luật Về Hợp
Tác được ban hành trong tháng 5/1988 có lẽ cấp tiến nhất trong cải tổ kinh tế
suốt thời kỳ đầu kỷ nguyên Gorbachev. Ðây là lần đầu tiên từ Chính Sách Tân
Kinh Tế của Vladimir Lenin, luật cho phép sở hữu tư các
công việc trong khu vực ngoại thương, chế tạo sản xuất và dịch vụ. Dưới điều
khoản của luật này, nhà hàng, cửa hàng và nhà máy sản xuất hợp tác trở thành
một phần trong xã hội Sô Viết vốn không coi trọng quyền tư hữu cá nhân.
Glastnost
dẫn đến tự do ngôn luận lớn hơn và báo chí ít bị kiểm soát. Có thể mục tiêu
chính của Gorbachev trong quyết định thi hành chủ trương glasnost nhằm gây sức ép với phe bảo thủ,
những người chống đối chính sách tái cấu trúc kinh tế của ông. Mặc dù ông cũng
hy vọng các tầm mức khác nhau về cởi mở, thảo luận và tham dự, toàn thể người
dân Liên Sô sẽ ủng hộ sáng kiến cải tổ của ông.
Hàng ngàn tù
nhân chính trị và người bất đồng chính kiến được phóng thích. Khoa học xã hội
Sô Viết trở nên tự do trong việc khám phá và xuất bản nhiều chủ đề trước đây
hoàn hoàn bị giới hạn, bao gồm hướng dẫn thăm dò, thu thập ý kiến công chúng.
Trung Tâm Toàn Liên Bang Nghiên Cứu Ý Kiến Công Chúng (VCIOM) - định
chế nổi bật nhất trong vài tổ chức thu thập ý kiến quần chúng được bắt đầu vào
lúc đó - được ra mắt công chúng.
Hồ sơ nhà
nước được hé mở cho việc tìm kiếm, nghiên cứu, và một số thống kê xã hội bị giữ
bí mật trước đây trở nên công khai cho công cuộc tra cứu, tìm hiểu và công bố
những đề tài nhạy cảm như không cân xứng về lợi tức, tội ác, tự tử, phá thai,
và hài nhi tử vong. Trung tâm đầu tiên nghiên cứu phái tính được khánh thành
trong phạm vi Học Viện Kinh Tế - Xã Hội Nghiên Cứu Dân Số Con Người.
Tháng
Giêng/1987, Gorbachev kêu gọi dân chủ hóa, sự thâm nhập các yếu tố dân chủ như
các cuộc bầu cử có nhiều ứng viên vào trong tiến trình chính trị Sô Viết. Một
hội nghị năm 1987 được ông Leonid Abalkin triệu tập, ông là kinh tế gia Sô
Viết và cũng là cố vấn cho Gorbachev, hội nghị kết luận: “Sự chuyển đổi sâu sắc
việc quản trị kinh tế không thể thành hiện thực khi không có thay đổi tương ứng
trong hệ thống chính trị”.
Leonid
Abalkin hay Leonid Ivanovich Abalkin sinh năm 1930 ở Moscow, trở
thành Giám Ðốc Học Viện Kinh Tế thuộc Hàn Lâm Viện Khoa Học Sô Viết với trách
nhiệm đặc biệt về kinh tế. Sau này ông cũng làm cố vấn cho Tổng Thống Yeltsin.
Dưới thời Gorbachev, ông là một trong những nhân vật chủ trương cải cách kinh
tế nhanh chóng. Năm 1998 ông là thành viên Nhóm Khủng Hoảng Kinh Tế. Hầu hết
các tác phẩm xuất bản của ông ưu tư đến các vấn đề lý thuyết kinh tế chính trị
XHCN.
Vào tháng
6/1988 tại Ðại Hội Ðảng XIX Ðảng Cộng Sản Liên Sô, Gorbachev đề ra những cải tổ
triệt để, điều này có nghĩa giảm bớt quyền kiểm soát của đảng đối với bộ máy
chính quyền. Trong tháng 12/1988, Sô Viết Tối Cao chấp thuận thành lập cơ quan
Các Ðại Biểu Quốc Hội Nhân Dân, theo đó các tu chính hiến pháp được xác định
như cơ quan lập pháp mới của Liên Bang Sô Viết.
Các cuộc bầu
cử vào quốc hội được tổ chức khắp Liên Sô trong tháng 3 và 4/1989. Gorbachev
với chức vụ Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản có thể bị thúc ép từ nhiệm bất cứ lúc nào
nếu thành phần có ảnh hưởng trong đảng không thỏa mãn với ông. Ðể xúc tiến cải
tổ bị đa số trong đảng phản đối, Gorbachev muốn củng cố quyền lực trong vị trí
mới, Tổng Thống Liên Bang Sô Viết, độc lập với Ðảng Cộng Sản và các hội đồng Sô
Viết và kẻ giữ vai trò này chỉ có thể bị luận tội trong trường hợp vi phạm luật
trực tiếp.
Ngày
15/3/1990, Gorbachev được bầu vào chức vụ Tổng Thống đầu tiên. Cùng lúc đó hiến
pháp thay đổi để tước bỏ quyền lực chính trị của Ðảng Cộng Sản Liên Sô.
B/ NHỮNG HẬU QUẢ NGOÀI TIÊN LIỆU
Những cố
gắng của Gorbachev để sắp xếp hợp lý hóa hệ thống Cộng Sản đưa ra những hứa
hẹn, nhưng sau cùng chứng tỏ không thể kiểm soát được và đưa đến hậu quả với
hàng loạt biến cố làm cho Liên Sô sau cùng bị giải thể. Những ý định khởi đầu
như các công cụ chống đỡ nền kinh tế Sô Viết, các chính sách perestroika và glasnost chẳng mấy chốc dẫn đến hậu
quả không chủ tâm.
Sự nới lỏng dưới chính sách
glasnost dẫn tới hậu quả Ðảng Cộng Sản mất đi quyền siết chặt phương tiện
truyền thông. Trước nhiều lúng túng của chính quyền, giới truyền thông bắt đầu
phơi bày các vấn đề xã hội, kinh tế nghiêm trọng mà chính quyền Sô Viết từ lâu
phủ nhận và tích cực che giấu.
Các
vấn đề được phơi bày ra làm gia tăng chú ý như tình trạng nhà ở nghèo nàn, tình
trạng nghiện rượu, lạm dụng ma túy, ô nhiễm, các nhà máy quá cũ thời Stalin còn
lại, và tình trạng tham nhũng từ nhỏ đến trầm trọng, tất cả bê bối này bị
truyền thông chính thức (của đảng lãnh đạo) lãng quên.
Những
tường thuật của truyền thông cởi mở cũng phơi bày tội ác dưới thời Stalin và
chế độ Sô Viết như Gulag, hiệp ước giữa Stalin và Adolf Hitler, Ðại Thanh
Trừng. Thêm nữa cuộc chiến đang diễn ra tại Afghanistan, việc xử lý sai lầm vụ
nổ lò nguyên tử Chernobyl năm 1986 mà Gorbachev cố gắng che khuất, làm tổn hại
thêm uy tín của chính quyền Sô Viết vào lúc lòng bất mãn của nhân dân lên
cao.
Trong tất
cả, cái nhìn rất tích cực về đời sống Sô Viết được giới truyền thông nhà nước
từ lâu trình bày đến công luận đã bị tháo bỏ nhanh chóng, và các khía cạnh tiêu
cực trong cuộc sống ở Liên Sô bị đem ra ánh sáng. Ðiều này phá sụp niềm tin
công chúng đối với hệ thống Sô Viết và xói mòn cơ sở quyền lực xã hội của Ðảng
Cộng Sản, đe dọa nền tảng và sự thống nhất của chính Liên Bang Sô Viết.
Ngày 30/4/1975,
Miền Nam Việt Nam
bị Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm một cách vi hiến. Đây là nỗi buồn đau uất hận
không nguôi của dân Việt!!!
15 năm sau,
hệ thống chính trị Cộng Sản độc tài độc chuyên trên thế giới bị sụp đổ tan rã. Đây
là niềm vui đại thắng của nền văn minh nhân loại!!!
{1}Tai họa nguyên tử Chernobyl :Đầu tháng 4/1986, Chernobyl
(chữ Ukraine viết:
Chornobyl) là một thành phố ít ai biết đến nằm trên sông Pripiat ở Trung - Bắc Ukraine .
Hầu như tình cờ tên Chernobyl
có liên hệ với nhà máy năng lượng nguyên tử V.I. Lenin nằm ở thượng nguồn cách
đó khoảng 25 km.
Ngày 26/4, sự vô danh của thành phố tan
biến mãi mãi khi trong một cuộc thử nghiệm vào lúc 1 giờ 21 phút sáng, lò phản
ứng số 4 phát nổ và thải ra số lượng phóng xạ nhiều gấp 30 đến 40 lần của những
trái bom nguyên tử do Hoa Kỳ thả xuống Hiroshima và Nagasaki ở Nhật vào năm
1945.
Thế giới đầu tiên biết đến tai họa
nguyên tử tệ hại nhất trong lịch sử nhân loại từ Thụy Điển nơi mà mức phóng xạ
không bình thường được ghi nhận tại một trong các cơ sở nguyên tử của quốc gia
này. Được xếp vào loại tai họa cực lớn trong ngành kỹ nghệ. Không ai tiên đoán
được số lượng chính xác nạn nhân sau cùng là bao nhiêu.
31 người bị chết liền ngay tại chỗ. Hàng
trăm ngàn người Ukraine, Nga, và Belarus phải rời khỏi tất cả những thành phố
và khu dân cư trong phạm vi một vùng đất 30 km đang bị nhiễm độc nặng. Có nhiều
ước lượng khác nhau, nhưng phần chắc có khoảng 3 triệu người, trong đó hơn 2
triệu người Belarus, hãy còn sống trong khu vực bị nhiễm phóng xạ. Trong thành
phố Chernobyl
vẫn còn có 10.000 dân cư sống.
Hàng tỷ đồng rubbles đã được chi ra, và
hãy còn thêm nhiều tỷ khác được cần đến để di dời các cộng đồng dân cư cũng như
biện pháp khử độc trên vùng đất nông nghiệp phì nhiêu.
Chernobyl trở thành một trường hợp ghi
nhớ không những chỉ kinh hoàng về tình trạng không kiểm soát được năng lượng
hạt nhân nhưng cũng còn biểu hiện cho cách làm việc bí mật và lừa dối, không kể
đến an toàn của công nhân và gia đình họ, cũng như bất lực để thực hiện các
dịch vụ căn bản như chăm sóc y tế, chuyên chở, đặc biệt trong tình trạng khẩn
cấp.
Vụ nổ lò nguyên tử Chernobyl đã làm lệch đi chương trình năng
lượng hạt nhân nhiều tham vọng của Liên Sô.
{2}Pakistan(tên cũ là Hồi Quốc): Quốc gia nằm trong tiểu lục địa
Ấn Độ, dân số năm 1991 có 115.588.000 người, thủ đô là Islamabad. Pakistan
được thành lập năm 1947 trong tình trạng một đất nước bị phân chia theo sau sự
kiện đế quốc Anh rút khỏi thuộc địa Ấn Độ.
Đầu tiên Pakistan
có hai lãnh thổ riêng biệt ở Đông và Tây Ấn Độ có tên gọi Tây Hồi và Đông Hồi,
trong đó đa số theo Hồi Giáo. Cuộc nội chiến xảy ra khi Đông Hồi tuyên bố đòi
tự trị với sự can thiệp của Ấn tháng 12 năm 1971 khiến cho ra đời nhà nước Bangladesh độc
lập năm 1972. Pakistan
có lịch sử lâu dài dưới sự cai trị của các tướng lãnh và vùng đất Kasmir tranh
chấp với Ấn chưa được giải quyết.
{3}Phong Trào Mujahideen: Một mujahid
(nghĩa đen từ chữ Ả Rập: người tranh đấu) là người chiến đấu cho tự do. Số
nhiều của mujahid là mujahideen.
Phong Trào Mujahideen
nổi tiếng nhất là nhiều nhóm đối lập liên hệ gần gũi với người Afghanistan
đầu tiên nổi lên chống chính quyền Afghanisstan thiên Cộng được Liên Sô ủng hộ
vào cuối thập niên 1970. Sau đó khi Liên Sô can thiệp sâu vào nội tình Afghanistan ,
Mujahideen
tổ chức cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân Liên Sô xâm lược.
Phạm Hoàng Tùng biên soạn.
Tài liệu tham khảo và dữ kiện được trích dẫn từ:
http://en.wikipedia.org/wiki/History_of_the_Soviet_Union_(1985%E2%80%931991) http://en.wikipedia.org/wiki/Collapse_of_the_Soviet_Union#Dissolution_of_the_USSR
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét